Trước thời khắc về nhà chồng, công chúa đội mũ phượng, mặc áo bào đỏ có thêu hoa tròn và chim phượng, xiêm bằng đoạn bát ty màu bạch tuyết, đi hài đỏ thêu hình chim phượng. Chuẩn bị xong xuôi, công chúa được nữ quan dẫn đến hầu vua cha và mẫu hậu để được nghe những lời giáo huấn trước lễ Thân nghing.
Khi kiệu hoa tới trước cửa Tả đoan, công chúa bước ra, bên trong, phò mã đã chờ sẵn bên kiệu, tự tay vén màn mời công chúa lên.
Phò mã cưỡi ngựa che 2 lọng, lính hầu bê tráp dẫn đường, có 300 binh sĩ cầm cờ quạt, nghi trượng và phường nhạc. Theo bên kiệu công chúa là 6 nữ quan và các thể nữ mặc áo mã tiên, 2 người cầm lồng đèn, 2 người cầm nhành thiên tuế, 2 người ôm lồng ngỗng, 4 người ôm tráp trầu và hộp hương.
12 vị hoàng thân, 2 phò mã, 4 viên quan văn võ cùng phu nhân đi võng lọng dẫn đường. Ra khỏi hoàng thành, phò mã được lên kiệu cùng công chúa.
Kiệu cô dâu về đến phủ, sẽ được rước thẳng vào cửa chính, phò mã vén kiệu đỡ công chúa vào phòng. Đoàn đưa công chúa được mời vào phòng khách để nhận khoản đãi.
Phò mã cùng công chúa vào lễ ở bàn thờ lễ tơ hồng, dự lễ Hợp cẩn. Hai vợ chồng ăn chung mâm cỗ lễ tơ hồng, cùng uống rượu trong 2 chén làm bằng 2 nửa của cùng một quả bầu.
Ngày hôm sau, công chúa sẽ theo chồng tới ra mắt cha mẹ chồng. Nghi lễ gồm 4 lạy, cha mẹ đáp lễ bằng 2 vái. Ngày thứ 3 hai vợ chồng đến từ đường lễ tổ tiên nhà chồng, mỗi người lạy bốn lạy, 2 vái.
Đến ngày thứ 9, hai vợ chồng vào chầu vua, phò mã sẽ được vua ban một bộ triều phục tam phẩm, 2 áo gấm, 2 bộ yên ngựa. Sau khi lạy tạ vua 5 lạy, phò mà và công chúa vào lạy chào hoàng hậu và hoàng thái hậu.
Khi đi lấy chồng, công chúa sẽ được vua cấp của hồi môn, chồng công chúa sẽ được phong làm Phò mã Đô úy.
Cưới được công chúa, phò mã được cấp bổng lộc hàng năm, công việc chủ yếu là dự yến tiệc, theo hầu nhà vua.
Lễ cưới công chúa từ thời vua Tự Đức (1887 - 1883) được tiến hành ở Tôn Nhơn Phủ (Nhờ thờ nhà Nguyễn). Theo thời gian, lễ cưới công chúa ngày càng thay đổi, các lễ vật ngày càng đơn giản hơn.