Thậm chí, 4 trung tâm lưu trữ quốc gia thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước vẫn chưa chia sẻ được dữ liệu với nhau. Muốn tìm tài liệu ở cả 4 trung tâm thì không cách nào khác, phải đi đến từng nơi. Mà điều này, chỉ có thể làm được nếu là một nhà nghiên cứu đầy kỳ công và có tài chính.
Cho đến nay, Việt Nam có 7 di sản tư liệu. Trong đó, có 3 di sản tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám; 4 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, Văn thơ trên kiến trúc cung đình Huế, Mộc bản trường học Phúc Giang, Hoàng hoa sứ trình đồ.
Ngoài các di sản trên, nước ta còn khối lượng vô cùng đồ sộ các tư liệu cổ được bảo tồn trong các bảo tàng, trung tâm lưu trữ, hoặc trong các di tích đình chùa. Mới đây, bộ mộc bản “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” của đại danh y Lê Hữu Trác được công nhận là bảo vật quốc gia. Thế nhưng, chúng ta tự hỏi đã bao nhiêu người được tiếp cận với các di sản ấy, để hiểu nội dung cũng như giá trị quý báu?.
Phát huy các giá trị di sản, không gì bằng để người dân được mắt thấy tai nghe. Nhưng ngay trong việc tiếp cận nội dung còn khó, thì nói gì đến việc lan toả ý nghĩa và giá trị của di sản.
Thiết nghĩ để công tác bảo tồn song hành với phát huy giá trị, chúng ta cần giao và phân quyền một cách mạch lạc, có đầu mối. Đồng thời số hoá cụ thể từng di sản để người dân dễ dàng tiếp cận. Hơn thế nữa, bảo tồn cần phải khoa học, hợp lý chứ không phải “đóng kín, gói chặt”, biến di sản thành “nấm mồ tư liệu”.