Ngày 13-1-2023, ông Nguyễn Thế Hồng sang Paris, ký chính thức với nhà đấu giá Millon bản hợp đồng mua tác phẩm nghệ thuật ấn vàng Hoàng đế chi bảo. Tổng giá của tác phẩm được các bên thỏa thuận là hơn 6.100.000 Euro (hơn 153 tỷ đồng).
Ấn vàng "Hoàng đế chi bảo" sau khi hồi hương từ Pháp về Việt Nam được trưng bày tại Bảo tàng Hoàng gia Nam Hồng (Từ Sơn, Bắc Ninh)
Biểu trưng của quyền lực chính trị
Ấn vàng "Hoàng đế chi bảo" là di sản văn hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng với dân tộc, là biểu trưng của quyền lực chính trị trong một giai đoạn lịch sử Việt Nam, đánh dấu mốc quan trọng cho sự chuyển giao từ chế độ quân chủ hơn nghìn năm sang nền dân chủ của nhân dân Việt Nam - Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thời đại Hồ Chí Minh.
Ấn Hoàng đế chi bảo được đúc bằng vàng ròng vào ngày 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4, tức ngày 15-3-1823. Theo các chuyên gia lịch sử và văn hóa, đây là Bảo ấn lớn và đẹp nhất của triều Nguyễn, nặng 10,78 kg. Ấn được truyền từ đời vua Minh Mạng đến Bảo Đại, vị vua cuối cùng nhà Nguyễn.
Ấn "Hoàng đế chi bảo" được đúc bằng vàng ròng vào ngày 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4, tức ngày 15-3-1823, nặng 10,78 kg
Về sự kiện đúc chiếc ấn Hoàng đế chi bảo, sách "Đại Nam thực lực" (tập 6, bản dịch của Viện Sử học, NXB Khoa học xã hội, 1963, trang 146) ghi khá rõ: "Ngày Giáp Thìn đúc ấn Hoàng Đế Chi Bảo, nuốm (núm) làm rồng cuốn 2 tổng, vuông 3 tắc 2 phân, dày 5 phân, làm bằng vàng 10 tuổi, nặng 280 lượng 9 đồng 2 phân".
Theo cuốn Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ấn được dùng cho các hoạt động công quyền, chính sự của triều Nguyễn như lễ khánh tiết, ban ân, xá tội, đi tuần thú các địa phương, sắc thư ban cho nước ngoài. Đại diện Cục khẳng định Hoàng đế chi bảo là ấn vàng lớn, đẹp, quý và quan trọng nhất của vương triều Nguyễn.
Trở về sau bao năm lưu lạc
Ngày 30-8-1945, khi tuyên bố thoái vị, vua Bảo Đại đã chọn chiếc ấn đẹp nhất, quý nhất, biểu trưng của chế độ quân chủ thời Nguyễn là ấn vàng Hoàng đế chi bảo cùng thanh bảo kiếm mà phụ vương của ông là vua Khải Định (1916 - 1925) trao lại cho ông, để bàn giao cho chính quyền cách mạng.
Ông Trần Huy Liệu, đại diện cho chính quyền cách mạng, đã tiếp nhận bộ ấn kiếm mang tính biểu tượng này, rồi cho chuyển về Hà Nội ngay trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình vào ngày 2-9-1945.
Tháng 12-1946, thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội, hiện vật được đem giấu tại ngôi nhà ở làng Nghĩa Đô - vốn là xưởng in tiền của Việt Minh. Ngôi nhà bị phá hủy vào năm 1947. Ngày 28-2-1952, một tiểu đoàn của Pháp do Tiểu đoàn trưởng Toce Raymond chỉ huy, đào bới phần móng nhà để thu gạch vỡ, phát hiện hai chiếc hòm đựng bộ ấn kiếm.
Ấn được dùng cho các hoạt động công quyền, chính sự của triều Nguyễn như lễ khánh tiết, ban ân, xá tội, đi tuần thú các địa phương, sắc thư ban cho nước ngoài
Cùng năm, Pháp trao hai hiện vật cho cựu hoàng Bảo Đại, khi đó là Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam. Sự kiện diễn ra ngày 8-3-1952, được tạp chí Paris Match của Pháp ghi lại. Khi đó Bảo Đại đang ở Pháp, Đoan Huy hoàng thái hậu và bà Mộng Điệp - thứ phi của cựu hoàng - thay mặt ông tiếp nhận bộ ấn kiếm.
Năm 1953, do tình hình chiến tranh, Bảo Đại cử bà Mộng Điệp mang hai hiện vật cùng một số tư trang, giao cho hoàng hậu Nam Phương và cựu thái tử Bảo Long cất giữ.
Năm 1963, hoàng hậu Nam Phương qua đời, hiện vật được Bảo Long ký gửi trong một két sắt tại Union des Banques Européennes (Ngân hàng châu Âu).
Sau này, cựu hoàng Bảo Đại kiện con trai ra tòa để đòi lại hiện vật. Tòa án tại Pháp sau đó tuyên Bảo Đại được sở hữu kim ấn, Bảo Long giữ bảo kiếm.
Năm 1982, cựu hoàng kết hôn với bà Monique Baudot, người Pháp. Trước khi qua đời vào tháng 8-1997, ông để lại di chúc, trao quyền thừa kế toàn bộ tài sản của ông ở Pháp, bao gồm cả ấn cho vợ. Bà Monique Baudot qua đời năm 2021, sau đó những người thừa kế tài sản của bà mang ấn vàng đi đấu giá.