Đáng lưu ý rằng, số học sinh tốt nghiệp THCS năm học 2022-2023 của Hà Nội là hơn 129 ngàn, trong đó khoảng 104 ngàn đăng ký thi vào lớp 10. Số 25.000 học sinh, xấp xỉ 20%, chủ động bỏ học hoặc chuyển hướng học nghề; một số ít nhập học các trường quốc tế cao cấp hoặc du học. Số 104.000 thí sinh đăng ký thi vào 10 là những học sinh có nguyện vọng tiếp tục học cấp 3 hệ phổ thông chuẩn.
Sau khi trượt trường công, những học sinh và gia đình các em có thực sự có lựa chọn? Không hẳn, mà cuộc đua tiếp tục diễn ra ở những trường tư và công lập tự chủ tài chính. Như vậy, sau bộ lọc "trình độ" (đo lường bằng điểm chuẩn), thì đến bộ lọc kết hợp của vừa trình độ, khả năng tài chính (đo lường bằng mức học phí có thể chi trả) và nhiều tiêu chí khác. Lúc này, một suất học tại một trường nào đó không phải là lựa chọn mong muốn mà là sự buộc "phải chấp nhận" "lựa chọn cay đắng" vì không có lựa chọn khác tốt hơn.
Trong số vài chục ngàn học sinh trượt công lập, có những học sinh vẫn còn có thể có lựa chọn cuối cùng là một trường tư thục chẳng hạn, có những những người không có lựa chọn nào cả.
Mức học phí trường PTTH công lập được công bố là 300.000 đồng/tháng, trong khi học phí tại các trường công tự chủ cao gấp 8-18 lần (THPT Nguyễn Tất Thành là 2,4 triệu /tháng; THPT Phan Huy Chú 5,8 triệu/tháng). Học phí tại các trường THPT tư thục trung bình 7-10 triệu/tháng, cao gấp 20-30 lần so với trường công. Ngoài ra một số trường tư thục cao cấp như Olympia, Dewey... học phí vài trăm triệu một năm chỉ dành cho các gia đình có thu nhập cao.
Loại hình trường đủ cả. Số lượng trường cũng có thể không thiếu. Chỉ có điều dường như người học và phụ huynh đã không đi theo luồng mà các nhà quản lý dự tính.
Ai bị bỏ lại phía sau? Có hay không sự bất công do giàu nghèo
Kết quả khảo sát do UNICEF công bố trong Vietnam Education Factsheets 2022, bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục phổ thông ở Việt Nam ngày càng lớn. Năm 2021, tỷ lệ trẻ em "không đi học" [1] ở bậc THPT là 22%. Có tới 47% trẻ trong nhóm 20% dân số nghèo nhất bỏ học cấp 3, trong khi với nhóm 20% dân số giầu nhất, 98% trẻ được đi học. Với các nhóm dân có điều kiện kinh tế khá giả hơn, số trẻ được đi học trung học cao hơn.
Trong các chỉ số Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về giáo dục còn có tỷ lệ hoàn thành chương trình giáo dục ở các cấp học [2]. Việt Nam chỉ có 59% dân số trong độ tuổi 21-23 hoàn thành trung học. Trong nhóm 20% người giầu nhất, tỷ lệ hoàn thành trung học lên tới 92%, trong khi trong nhóm 20% người nghèo nhất, chỉ có 31% học xong cấp 3. Như vậy, cả chỉ số học sinh bỏ học ở bậc THPT và người trong nhóm tuổi 21-23 không hoàn thành trung học ở nhóm dân số nghèo nhất đều cao hơn nhiều lần so với nhóm dân số giàu nhất.
Bức tranh này dường như ánh xạ cục diện tuyển sinh vào THPT và phần nào làm lộ diện phần lớn trong số hơn 57 ngàn học sinh không vào học công lập (33 ngàn trượt lớp 10 công lập và khoảng 24 ngàn đã không đăng ký thi vào 10). Khoảng 30 ngàn trong số này có hội để vào học các trường tư thục, nếu gia đình đủ khả năng tài chính. Với mức học phí tư thục trung bình khoảng 7-10 triệu/tháng, những hộ gia đình có thu nhập dưới 20 triệu/tháng khó có thể cho con đi học.
Như đã phân tích ở trên, thí sinh có điểm trung bình môn đạt mức 6-7 điểm vẫn có thể trượt vào lớp 10 ở nhiều khu vực nội thành. Không có bất cứ cơ sở nào để khẳng định mức điểm này là không đủ năng lực để học hệ THPT chuẩn, là "dốt". Như vậy, những học sinh có học lực trung bình khá có thể phải nhường lại suất/ cơ hội đi học trung học cho những học sinh có học lực kém hơn nhưng gia đình giàu có hơn.
Về lý thuyết, vẫn còn chỗ học ở những trường cách nhà 20-30km hoặc các trung tâm giáo dục thường xuyên, các cơ sở đào tạo nghề. Trên thực tế, các phương án này có thể không nằm trong lựa chọn của người học và gia đình vì nhiều lý do chính đáng: an toàn giao thông, thời gian di chuyển, việc quản lý của gia đình, chất lượng đào tạo và cơ hội cạnh tranh vào đại học, thời gian học tập, v.v...
Những vấn đề từ nhận thức, thái độ của xã hội
Hành vi và quyết định của phụ huynh, học sinh trong việc lựa chọn trường, chương trình giáo dục trung học chịu tác động của nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố nội tại, tự thân, nhưng cũng có nhiều yếu tố bên ngoài, khách quan.
Ngoài những yếu tố như học lực, đánh giá về chất lượng đào tạo, khả năng tài chính và hoàn cảnh gia đình, quan niệm của xã hội có tác động không nhỏ. Không đỗ vào công lập bị nhìn nhận là "dốt"; mà "dốt thì học giáo dục thường xuyên, học nghề thôi", là suy nghĩ không hiếm gặp, ngay cả đối với một số người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Việc không muốn bị nhìn nhận là (con) "dốt", là "thất bại" cũng khiến việc phân luồng giáo dục trung học không đạt được mục đích.
Người học có muốn đi tiếp tục được đi học? Câu trả lời là Có, với con số gần 105 ngàn học sinh đăng ký thi vào lớp 10. Tuy nhiên phụ huynh và học sinh ngày càng thực tế hơn, họ sẽ không chọn tiếp tục học bằng mọi giá nếu như việc học không đem lại giá trị. Trong số 116 trường THPT công lập, có 10 trường có số đăng ký nguyện vọng 1 thấp dưới mức chỉ tiêu, trong khi số nguyện vọng 2 và 3 vào 10 trường này cao gấp 5-7 lần nguyện vọng 1. Có thể diễn giải rằng đây là phương án dự phòng cho các trường tốp trên và rằng người học đã chấp nhận một "khoảng cách" đáng kể, kể cả chất lượng và không gian, để được tiếp tục đi học. Tuy nhiên do đối tượng người học là vị thành niên, tính "di động" (mobility) của người học hoàn toàn khác biệt với sinh viên đại học. Chính sách giáo dục đối với giáo dục phổ thông, kể cả bậc trung học, có tính "địa phương", tuyển sinh phân theo "khu vực", do vậy, không thể "điều chuyển" học sinh cư trú ở Từ Liêm đi học ở Sóc Sơn, trừ khi có trường nội trú.
Thay cho lời kết
Do đặc thù địa bàn Hà Nội rộng, bao gồm cả những vùng kinh tế, xã hội, giáo dục phát triển nhất trong nước lẫn những khu vực khó khăn nhất. Sự chênh lệch quá lớn giữa các khu vực nội và ngoại thành là thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách giáo dục cho Hà Nội. Đã đến lúc vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn và kỹ lưỡng hơn để có chính sách phù hợp thay vì những thống kê mang tính bề mặt để rồi những đứa trẻ sinh ra, lớn lên trong những gia đình khó khăn và ở vùng nông thôn, vốn chịu nhiều thiệt thòi, tiếp tục gánh chịu thiệt thòi khi bước vào ngưỡng cửa trưởng thành, và cơ hội vươn lên thông qua giáo dục ngày càng thu hẹp.
Ở một số quốc gia, giáo dục trung học là miễn phí, bất kể công, tư. Một số khác khuyến khích người dân hoàn thành trung học bằng cách cấp ngân sách cho trường tư để đưa học phí về ngưỡng "có thể chịu đựng được", đảm bảo rằng tài chính không phải là rào cản tiếp cận giáo dục phổ thông. Ngoài chính sách tài chính, cần xem xét quy mô đào tạo công/tư cho bậc trung học. Chỗ học ở trường tư xấp xỉ 50% của trường công chắc chắn là vấn đề lớn khi thống kê nhóm 72 ngàn học sinh vào học công lập theo điều kiện kinh tế của gia đình (thu nhập của bố mẹ). Song song với đó phải là các chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên để thu hẹp khoảng cách chất lượng đào tạo giữa các trường công lập bằng ngân sách địa phương cho giáo dục.
Người viết ý thức rất rõ rằng phổ cập giáo dục KHÔNG áp dụng ở bậc trung học, nhưng cần chấm dứt những cái phủi tay hết năm này qua năm khác bằng những con số rằng "trường không thiếu", "dốt thì học nghề thôi". Việc định danh học sinh toàn thành phố qua mã số học sinh và cơ sở dữ liệu dân cư hoàn toàn cho phép theo dõi những đứa trẻ của chúng ta từ đâu đến, đang và sẽ đi đâu.
TS Đỗ Ngọc Quyên
[1] Trẻ em "không đến trường" được định nghĩa là trẻ trong độ tuổi chính thức của một bậc học mà không đến trường đi học. Đối với THPT, độ tuổi này là 15-19. Tỷ lệ này là một trong những chỉ số SDG (SDG 4.1.4). Chỉ số này đã tính trẻ đi học cả hệ phổ thông và hệ dạy nghề.
[2] Tỷ lệ hoàn thành bậc học được tính là phần trăm những người/ trẻ trong nhóm tuổi lớn hơn 3 đến 5 năm so với tuổi tương ứng với năm học cuối cấp đã hoàn thành chương trình giáo dục bậc đó. Đối với bậc THPT, tuổi tương ứng với năm cuối cùng của bậc học là 12+; độ tuổi được tính cho chỉ số này là 21 (18+3) đến 23 (18+5).