Khám phá bảo vật hơn 300 năm của chúa Nguyễn

Trần Hoà | 04/05/2022, 09:34
Theo dõi Giáo dục Thủ đô trên

Chúa Nguyễn Phúc Chu dựng một tấm bia lớn vào năm 1715 trong dịp đại trùng kiến chùa Thiên Mụ mang tên “Ngự kiến Thiên Mụ Tự”.

Đặc biệt nội dung cô đọng, sâu sắc, thể hiện sự uyên thâm về kiến thức của chúa Nguyễn Phúc Chu, sự phong phú về hình thức nghệ thuật và trình độ chạm khắc trên đá của các nghệ nhân đương thời. Trong đó, dấu ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo” (ấn truyền quốc của các chúa Nguyễn) được thể hiện ở hai vị trí: Trên trán bia và ở cuối minh văn.

Mặc dù là dấu được khắc chồng lên nhưng nghệ thuật chạm khắc điêu luyện ở chỗ vẫn thể hiện được hai lớp nội dung khác nhau (nội dung của dấu ấn và phần nội dung bia), đủ để người đọc hình dung được thứ tự văn bản. Đây là hình thức vô cùng độc đáo thể hiện minh văn trên bia đá y như trên văn bản giấy.

Trải qua nhiều biến cố lịch sử, sự tác động của chiến tranh, thời tiết và con người, bia vẫn tồn cùng mạch nguồn tư tưởng, triết lý nhân văn thời chúa Nguyễn.

Với những giá trị độc bản về hình thức tạo tác, trang trí mỹ thuật. Đồng thời với sự sâu sắc về giá trị tư tưởng, lịch sử, văn hóa thời chúa Nguyễn, đặc biệt liên quan trực tiếp đến chúa Nguyễn Phúc Chu - vị chúa Nguyễn có nhiều công lao trong sự nghiệp mở mang phát triển đất nước vào đầu thế kỷ 18, bia “Ngự kiến Thiên Mụ Tự” đã được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2020.

Bài thơ của chúa Nguyễn


Chuông Đại Hồng Chung – Bảo vật quốc gia.

Hồ sơ di sản của Cục Di sản cho biết, bia cao 2,5m, làm bằng đá cẩm thạch. Riêng phần thân cao 1,93m, rộng 1,14m, dày 0,24m, tai bia dài 0,6m, chỗ rộng nhất 0,23m. Nét khắc còn rõ.

Bia được đặt trên lưng tượng rùa bằng đá chiều dài 2m, cao 0,51m, hoa văn hình bát giác, được tạo khối đẹp, vững chãi. Rùa có cả mai, bốn chân, mắt, miệng, được tạc khá hiện thực. Trán bia hình bán nguyệt, thân bia hình chữ nhật. Trán và thân bia trang trí hình rồng tượng trưng cho bậc vua chúa. Ngoài ra, còn có hoa văn sóng nước, mây lửa.

Bài minh văn trên bia đá gồm 1.260 chữ, khắc chân phương, ca ngợi đạo Phật, đất nước, quá trình tôn tạo, mô tả vẻ đẹp chùa Thiên Mụ. Đáng chú ý, cuối bài minh còn được khắc bài thơ nổi tiếng của chúa Nguyễn Phúc Chu:

GS Trịnh Sinh tạm dịch: “Nước Việt phương Nam, non sông hùng vĩ thay/ Chùa chiền tráng lệ, cửa thiền sáng đêm ngày/ Trong tâm tĩnh tại, lắng nghe dòng suối chảy/ Đất nước thanh bình, cảnh đẹp lòng ngất ngây/ Vô vi đạo Phật, đạo Nho cùng giáo hóa/ Vài dòng cảm khái, trên đời có nhân quả/ Ta dựng bia, ngăn lòng tà, khuyến lòng ngay”.

Đáng lưu ý, ngoài tấm bia “Ngự kiến Thiên Mụ Tự”, Nguyễn Phúc Chu còn cho đúc và cúng vào chùa Thiên Mụ quả chuông rất đẹp được coi là pháp khí quan trọng của xứ Huế. Hiện, quả chuông này vẫn lưu trong chùa và có tên Đại Hồng Chung.

Chuông được đúc ngày Phật đản năm 1710, nặng 3.285 cân (hơn 2.000kg), cao 2,5m, đường kính miệng 1,4m, có hình dáng cân đối. Hoa văn và những motif trên thân chuông được chạm trổ tinh vi, sắc nét với các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của cả 3 luồng tư tưởng lớn Á Đông: Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo.

Chuông chùa Thiên Mụ là một trong những quả chuông chùa lâu đời và có giá trị nhiều mặt ở cố đô Huế. Đồng thời cũng là công trình tiêu biểu về giá trị mỹ thuật trang trí, cũng như hội tụ các nét đặc trưng của nghệ thuật đúc đồng tinh xảo. Đại Hồng Chung chùa Thiên Mụ được công nhận là Bảo vật Quốc gia từ năm 2013.

Lời nguyền “oán tình duyên”

Ngoài sự kỳ vĩ của ngôi chùa và các bảo vật, quá trình hình thành và phát triển của chùa Thiên Mụ gắn liền với rất nhiều huyền tích bí ẩn, được đời sau nhắc mãi. Trong đó nổi bật là câu chuyện “oán tình duyên”.

Chuyện kể rằng, ở vùng đất đó có một đôi trai gái yêu nhau say đắm. Nhưng trớ trêu thay, tư tưởng thời đó không chấp nhận một chàng trai nghèo, gia đình thấp hèn có thể kết hôn với con nhà tiểu thư khuê các. Đôi uyên ương này rơi vào hoàn cảnh như vậy. Do đó, tình yêu của họ chịu sự phản đối quyết liệt từ gia đình nhà gái.

Quá đau khổ cho số phận, cả hai cùng nhau gieo mình xuống dòng sông Hương. Cứ tưởng rằng “sống không được ở cùng nhau, thì chết sẽ bên nhau mãi mãi”. Tuy nhiên, chỉ có chàng trai ra đi, còn cô gái thì trôi dạt vào bờ và được người dân cứu sống.

Nỗi đau về tình yêu của cô gái dần được hàn gắn qua thời gian. Trong khi đó, chàng trai vẫn chờ đợi cô gái nơi tử nguyệt nhưng mãi không thấy. Chàng uất ức “nhập” vào chùa Thiên Mụ. Từ đó về sau, người ta truyền tai lời nguyền rằng: “Bất kỳ cặp đôi nào yêu nhau, tới đây đều sẽ không có kết cục tốt đẹp”.

Lời nguyền cho đến nay vẫn chưa được phá bỏ, khiến cho chùa Thiên Mụ tăng thêm huyền bí. Tuy nhiên, vị trụ trì chùa cho rằng đây là câu chuyện được thêu dệt, để răn đe các cặp đôi yêu nhau - lợi dụng góc khuất trong chùa để làm những chuyện trái với chốn tôn nghiêm.

Bài liên quan
Bảo vật quốc gia mộc bản “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”
Mộc bản “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” vừa được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam ký quyết định công nhận là bảo vật quốc gia (đợt 10 - năm 2021).

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Khám phá bảo vật hơn 300 năm của chúa Nguyễn