Hệ thống bia ma nhai Ngũ Hành Sơn (78 bia khắc trên vách đá) phong phú và đa dạng phong cách. |
Ngoài hệ thống bia ma nhai Ngũ Hành Sơn, văn bản Hán Nôm Trường Lưu (Hà Tĩnh) được UNESCO đặc biệt chú ý. Đây là bộ sưu tập độc bản được viết bằng tay, gồm 26 sắc phong gốc do các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng cùng 19 tờ văn bằng và 3 bức trướng bằng lụa. Tất cả được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm – trải dài từ năm 1689 đến năm 1943.
Theo Bộ VH,TT&DL, các văn bản này với giá trị nguyên gốc, độc bản, có nguồn gốc rõ ràng và các sự kiện liên quan… đã từng làm nguồn tư liệu để biên soạn sách. Vì vậy nhiều thông tin có thể kiểm chứng, đối chiếu qua các tài liệu chính sử của Việt Nam như: Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cũng như qua các sách khảo cứu như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch.
Hệ thống văn bản trên chất đa dạng: Giấy dó, giấy dó đặc biệt và lụa, chữ viết đẹp và rõ. Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu là tư liệu quý hiếm về văn hóa và giáo dục của một làng quê miền Trung, trải qua nhiều biến cố vẫn được bảo lưu tương đối hoàn chỉnh. Đây là các tư liệu gốc giúp nghiên cứu quan hệ xã hội, lịch sử phát triển của làng thời xưa, đặc biệt trong giai đoạn từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20.
Các tài liệu được TS Nguyễn Huy Mỹ chủ trì sưu tầm, thẩm định từ các nhà thờ dòng họ, điện thờ... tại làng Trường Lưu (trước đây thuộc xã Trường Lộc, nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc). Đặc biệt, 6/48 tài liệu có nội dung về bình đẳng giới, bao gồm 5 sắc lệnh tôn vinh vai trò của phụ nữ, như: “Thánh Mẫu”, “Thưa bà”, “Tấm gương trung thành hoàn hảo”, “Ví dụ về đức hạnh”…
“Để xây dựng thành công hồ sơ Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, chúng tôi mất khá nhiều thời gian. Không kể thời gian trước đó, thì tính từ năm 2019, sau khi tổ chức thành công hội thảo khoa học quốc tế nghiên cứu giá trị di sản Hán Nôm thế kỷ 17 - 20 của dòng họ Nguyễn Huy, việc sưu tầm, nghiên cứu, thẩm định mới bắt đầu diễn ra tập trung và mở rộng đến các dòng họ khác.
Sau 3 năm tích cực sưu tầm, nghiên cứu, nhiều lần chỉnh sửa chúng tôi đã hoàn thành hồ sơ để trình lên UNESCO trong kỳ họp thứ 9 này”, TS Nguyễn Huy Mỹ cho hay.
Với việc có thêm 2 di sản, đến nay Việt Nam đã có 9 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, gồm 3 di sản tư liệu thế giới và 6 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Hai di sản vừa được ghi danh là nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu những giá trị truyền thống, nhấn mạnh việc tu dưỡng bản thân và giáo dục gia đình. Đồng thời là tài liệu quý để tìm hiểu việc áp dụng và thực hành chế độ khoa cử Nho học tuyển dụng người tài.