Chăm chút những đứa trẻ ở đây, cô Diên bảo phải thực sự coi bọn chúng như con mới làm được. Lâu dần, tình cảm gắn bó, trẻ yêu cô còn phụ huynh cũng thêm phần quý mến. Cũng từ sự trân quý, kính trọng ấy mà 3 năm trước cô bất ngờ trở thành “mẹ nuôi” trong hoàn cảnh “dở khóc dở cười”.
Lần ấy, cô Diên cùng 1 đồng nghiệp lên điểm bản Nậm Ty dạy học. Cô Diên đi trước, khi đến 1 đoạn cua gấp, vắng người, bất ngờ có 1 cặp vợ chồng trẻ từ trong bụi cây lao ra. Họ chặn đầu xe và yêu cầu cô dừng lại. Hoảng sợ, hoang mang vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra, song cô Diên vẫn cố gắng tỏ ra bình tĩnh.
“Họ bế trên tay cậu bé chừng 1 tuổi, rồi lấy ra một con gà đã luộc chín, 1 nắm xôi yêu cầu tôi ăn. Ban đầu, tôi cũng sợ, nhưng sau một hồi nghe giải thích rằng cháu bé là con của họ. Do cháu hay ốm đau, khó nuôi nên muốn tôi nhận làm con nuôi. Thấy thái độ họ rất chân thành nên tôi tin và nhận lời. Về kể chuyện với mọi người, ai cũng bảo tôi liều vì biết đâu gặp người xấu. Nhưng giờ tôi thấy hạnh phúc vì lúc đó mình đã làm đúng”, cô Diên bộc bạch.
Câu bé sau đó được bố mẹ đăng ký giấy khai sinh theo tên của cô Diên đặt là Giàng Tuấn Tú. Tú hiện giờ đã 3 tuổi và được bố mẹ cho đến lớp học tập cùng cô giáo. Theo ông Giàng A Của, ông nội của Tú thì người Mông ở đây quan niệm, con cái thường xuyên ốm đau nếu tìm được người nhận nuôi thì sẽ lớn lên khỏe mạnh, bình an. Người được lựa chọn làm bố, mẹ nuôi phải đáng tin cậy.
“Cháu tôi may mắn được cô giáo nhận làm con nuôi và hiện giờ cháu vẫn khỏe mạnh. Gia đình tôi cảm ơn cô nhiều nên lễ tết thường cho cháu đến tạ ơn, tặng bánh giầy, quả bí… Cô giáo cũng coi cháu Tú như con, tết rồi đầu năm học lại mua quà, quần áo, dép mới. Thằng bé mừng lắm!”, ông Của chia sẻ.
Không để trẻ nào “thất học”
Mỗi ngày, cô giáo Mùa Thị Dương phải dậy từ sớm, lên trường trung tâm nhận thực phẩm rồi di chuyển lên điểm trường Pá Sáng cách đó chừng 5km. Cô Dương cho biết, tại điểm này năm nay 38 trẻ các lứa tuổi theo học. “Việc huy động và duy trì được từng đó học sinh đến lớp đã khó, quá trình giảng dạy lại càng khó hơn vì học sinh nhiều độ tuổi, tính cách, thậm chí nhiều em khiếm khuyết, bệnh tật…”, cô Dương nói.
Cậu bé Vừ Hải Đăng là một trong số trẻ đặc biệt trong lớp. Đăng được các cô giáo phát hiện trong quá trình đi điều tra, lập danh sách. Cô Năm tâm sự: “Còn nhớ ngày đầu đến gặp, cả bố và mẹ cháu đều không đồng ý cho con ra lớp, với lý do “nó không biết nghe, nói thì đi học làm gì”. Chúng tôi phải bền bỉ đi lại nhiều lần, rồi nhờ sự tham gia của các đoàn thể xã, bản. Sau đó, trường cam kết sẽ chăm lo cho cháu để bố mẹ yên tâm đi nương thì anh Vừ A Gấu, bố cháu mới đồng ý”.
Những ngày mới đến lớp, Đăng không những không nghe, không hiểu, mà còn thực hiện ngược lại với hướng dẫn, chỉ bảo của giáo viên. Mỗi ngày sau đó cô Dương kiên trì quan tâm, hướng dẫn thông qua cử chỉ, hành động. Đăng dần tiến bộ, biết ngồi ngoan, không chạy nhảy lung tung khi cô nhắc, có sự hợp tác và tự biết xúc cơm ăn…
“Gần 1 năm cháu theo học cũng là bằng đó thời gian tôi và trường động viên gia đình làm hồ sơ cho con được hưởng chế độ trẻ khuyết tật. Nhưng không hiểu lý do vì sao nhiều lần gia đình khước từ. Vì sợ lỡ việc cháu nên tôi đã xin ý kiến ban giám hiệu và chủ động làm, rồi lại kiên trì vận động, giúp họ hiểu là khi làm hồ sơ thì con được hưởng lợi những gì. Khi cháu chính thức được nhận hỗ trợ, gia đình mới tin và cảm ơn trường”, cô Dương tâm sự.
Theo cô Liên chia sẻ, thì với quan điểm “không để trẻ nào phải thất học”, nên mỗi đối tượng, hoàn cảnh học sinh đều được giáo viên nhà trường quan tâm tìm hiểu rất kĩ. Qua đó, đề xuất phương án chăm sóc, giảng dạy, hỗ trợ phù hợp. Đặc biệt, từ khi dịch bệnh xuất hiện, quan điểm này được cụ thể hóa bằng việc giáo viên mang “lớp” đến tận nhà cho học sinh.
Cô Liên chia sẻ: “Giáo viên nhà trường sẽ được phân theo từng nhóm “nằm vùng” trong bản để tổ chức các hoạt động hướng dẫn phụ huynh cách chăm sóc, dạy dỗ trẻ ở nhà. Từ dạy trẻ nhận biết đồ vật, hiện tượng, múa, hát, tổ chức các trò chơi; đến việc hướng dẫn trẻ làm việc nhà ra sao, chế biến món ăn như nào để phù hợp với lứa tuổi…”.
Mỗi hoạt động như thế đều thu hút sự hứng thú của rất đông phụ huynh, nhất là các bà mẹ. Từ đó, không chỉ bồi đắp thêm tình cảm giữa cô giáo với phụ huynh, học sinh, mà còn giúp gắn kết tình cảm các gia đình. Những ông bố, bà mẹ vùng cao hào hứng và tỏ ra hạnh phúc khi được tận tay chăm sóc con, em mình.
Năm học này, giải pháp trên đã được cô Năm xây dựng, phát triển thành đề tài sáng kiến kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động học sinh ra lớp. Tuy nhiên, theo cô Năm, công tác tổ chức sẽ quy mô hơn và được thực hiện vào đầu mỗi năm học.
“Như các năm trước, các giáo viên cũng trực tiếp đến nhà nhưng chỉ ngồi nói miệng, vận động nhau thế thôi. Vất vả, mà kết quả chưa thực sự như mong đợi. Từ năm học này, nhà trường đã chuyển hình thức vận động sang bằng việc làm, hình ảnh cụ thể thì thấy rằng hiệu quả rõ nét luôn. Đa phần các gia đình đều đồng ý cho con đến lớp ngay trong lần đầu gặp, không phải đi lại nhiều”, cô Năm cho hay.
Theo đó, giáo viên được chia thành từng nhóm, mang theo đồ dùng dạy học, đồ chơi, thậm chí máy chiếu cho 1 tiết học cụ thể. Tại các gia đình, giáo viên sẽ tổ chức lại một buổi học bất kỳ, với các hoạt động học và chơi cho trẻ. Với gia đình có điện, đảm bảo điều kiện thì sử dụng máy chiếu cho phụ huynh xem hình ảnh về các lớp học thực tế.