Mai Anh Tuấn muốn ngăn mầm xa xỉ, bèn dâng sớ nói lời rất thống thiết với nội dung đại để như sau: Việc sang mua bán ở Việt Đông đã từng có lệnh đình chỉ, trong ngoài đều rõ cả. Nay, nếu cứ thương kẻ mắc nạn, mượn tiếng hòa hiếu với lân bang để doanh thương đổi chác, thế là giả danh đưa rằng người bị nạn để chở hàng hóa về, người nước láng giềng tất sẽ tự hỏi: Thuyền ấy là thuyền gì?
Vả chăng, nay ở Lạng Sơn, bọn thổ phỉ (người nhà Thanh từ Trung Quốc) tràn sang dễ đã đến mấy tuần, công văn giấy tờ hai nước qua lại bất nhất, thế thì tai họa của viên quan ở Việt Đông kia chỉ là vớ vẩn, không đáng gì với tai nạn của dân ta ở Lạng Sơn.
Thiết tưởng, việc làm của bộ Hộ và bộ Lễ không phải là việc nghĩa. Xin nhà vua hãy đem những thứ hàng hóa định chở sang Việt Đông mà thưởng cho binh lính, khiến họ quét nhanh đám giặc ngoài biên cõi thì tốt hơn.
Tờ sớ ấy dâng vào, vua Tự Đức không hài lòng vì cho rằng ông phạm tội “khi quân bất kính”. Sau đó, vua Tự Đức sai bộ Lại bàn để trị tội, nhưng các vị đại thần đều liên tiếp dâng sớ xin tha. Nhà vua đã ra lệnh hạ chức, phái đi làm án sát tỉnh Lạng Sơn.
Hội đủ “hiếu, trung, nghĩa, dũng”
Hàng năm, họ Mai đều tổ chức lễ giỗ Thám hoa Mai Anh Tuấn. |
Năm 1851, loạn giặc đang bành trướng khắp vùng Lạng Sơn, ai cũng lấy làm nguy, nhưng ông hăng hái nhận mệnh vua lên vùng biên ải nhậm chức. Mới hơn một tháng, ông đã dẫn quân đánh thắng được giặc ở Hữu Khánh, được vua xuống chỉ khen ngợi. Nhân đó ông lại dâng sớ xin “Thư sức dân, rèn tập thổ dõng, ngầm bài xích thế giặc”.
Có lần 3.000 tên giặc Tam Đường bên Trung Quốc tràn sang biên giới nước ta cướp phá vùng Tiên Yên rồi tiến sâu vào Lạng Sơn. Ông cùng với Chưởng vệ Nguyễn Đạc đem quân đuổi đánh, bước đầu thắng lớn. Tuy nhiên sau đó, Nguyễn Đạc bị trọng thương, tiền quân ở thế bất lợi. Mai Anh Tuấn đem quân tiếp cứu nhưng gặp địa hình hiểm trở, cả ông và Nguyễn Đạc tử trận.
Vua Tự Đức nghe tin rất cảm động thương xót truy tặng Mai Anh Tuấn làm Hàn lâm viện trực học sĩ. Vua lệnh đem thi hài ông về an táng tại Hoàng Cầu. Theo lệnh của vua, tỉnh Lạng Sơn và Thanh Hóa lập đền thờ ông. Linh vị và bát hương thờ được đặt ở đền Trung Nghĩa tại Hoàng thành Huế, bên cạnh các danh thần nhà Nguyễn. Phần mộ của ông và miếu thờ tọa lạc tại thôn Hoàng Cầu (Hà Nội), được dân làng và con cháu thờ cúng.
Sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” cho biết, Mai Anh Tuấn là một sĩ phu có khí phách, đối với kẻ dưới hòa nhã, thờ vua lấy điều trung can ngăn, khi lâm sự giữ được điều nghĩa. Sau khi hy sinh được các sĩ phu trong nước tưởng nhớ, thương xót dựng đền thờ.
Theo Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có một bài văn tế do Tổng đốc Kinh lược Bắc kỳ Nguyễn Văn Giai viết ca ngợi tinh thần vì nghĩa mà hy sinh thân mình, dẹp giặc lập công của Thám hoa Mai Anh Tuấn. Bài văn tế được chép trong cuốn “Lạng trình kỷ thực”, hiện lưu giữ trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Nội dung dịch nghĩa như sau: “Than ôi! Anh hùng không thể lấy sự thành bại mà bàn; cũng không thể việc sống chết mà kể. Duy có hiếu, trung, nghĩa, dũng đủ để đảm đương đấy.
Đau đớn thay! Ông họ Mai là quan Án sát tỉnh Lạng Sơn. Là người khí tiết khiêm nhường, phong thái cẩn trọng. Khôi giáp đỗ đầu khoa, nổi danh, rạng rỡ người thân, đó là hiếu vậy; ở Nội các làm sớ kháng, xúc phạm kỵ huý, đó là trung vậy. Đi làm chánh tướng là khó, vào đất chết mà chẳng trách, đó là nghĩa vậy. Đi trước quân sĩ trong hoạn nạn đánh nát kẻ địch mạnh mà không sợ, đó là dũng vậy. Có bốn điều ấy mà chết, đâu có gì phải hận cảm vậy.
Điều đáng tiếc, là cái chí khí kích liệt; tâm khái thắng địch của ông. Sống, không làm Cấp Trường Nhụ ở Hoài Dương, không làm Đổng Đại Nho ở Giang Đô, không làm Hàn Xương Lê ở Triều Châu, không làm Khấu Lai Công ở Nhai Châu. Sao lại cam làm Giả Phó chết tại một chức vậy! Đó là kẻ bày tôi nặng lòng vì triều đình mà tiếc đấy; vì sĩ phu trong thiên hạ mà tiếc đấy; chẳng riêng vì ông mà tiếc vậy.
Ôi! Gió tây ù ù, ải Bắc u u. Dân vùng biên có biến động; giặc cuồng dông kiêu căng. Quân đơn đánh thẳng, để đến với đồng liêu. Đem cái chết để báo đền Tổ quốc, chẳng kịp tâu với triều đình. Hiếu, trung, nghĩa, dũng; muôn thuở nêu cao. Biết cùng không biết; hận tiếc khôn nguôi. Riêng lòng tôi biết; sao mà chằn chọc. Bèn bằng một lời để khóc viếng nhau. Mong ông như bậc khí tiết lớn, nơi đây soi xét cho tôi. Than ôi! đau đớn lắm thay!”.
Phần mộ của Thám hoa Mai Anh Tuấn và miếu thờ tọa lạc tại Hoàng Cầu (Hà Nội), được dân làng và hậu duệ hương khói suốt 170 năm nay. Đền thờ ông ở xã Nga Thạch, huyện Nga Sơn (Thanh Hóa) đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 1991.