Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, việc bổ sung quy định về “đô thị công nghệ cao” là bước tiếp cận mới. Tuy nhiên, để mô hình này khả thi, cần quy định rõ tiêu chí.

Chiều 6/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, thảo luận tại tổ về dự ánLuật Công nghệ cao (sửa đổi),các đại biểu Quốc hội thống nhất cao về sự cần thiết sửa đổi luật này, đồng thời đánh giá cao những quan điểm, mục tiêu được Chính phủ nêu trong tờ trình, coi đây là bước đi quan trọng nhằm khơi thông nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, dự thảo Luật vẫn cần được tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm tính bao quát, ổn định và khả thi trong tổ chức thực hiện.
Góp ý tại tổ, đại biểu Nguyễn Văn Mạnh (Đoàn Phú Thọ) đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu giữ lại toàn bộ các quy định về nông nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Điều 16, 19, 32 Luật hiện hành.
Theo đại biểu, các quy định về nông nghiệp công nghệ cao đã được duy trì ổn định hơn 17 năm, gắn liền với nhiều đạo luật như Luật Đất đai, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Tổ chức Chính phủ...
Nếu xóa bỏ, sẽ tạo ra khoảng trống pháp lý, gây khó khăn trong quy hoạch, thủ tục đất đai, tổ chức bộ máy và phân công nhiệm vụ của cơ quan nhà nước. Thực tế, cả nước đã có 34 khu nông nghiệp công nghệ cao tại 19 tỉnh, nhiều khu đã hoạt động hiệu quả và thu hút đầu tư lớn.
Vì vậy, việc giữ lại, hoàn thiện các quy định về khu nông nghiệp công nghệ cao là cần thiết để bảo đảm cơ sở pháp lý cho các địa phương tiếp tục duy trì, phát triển mô hình này.
Liên quan đến quy định về “đô thị công nghệ cao”, đại biểu Nguyễn Văn Mạnh cho rằng, đây là hướng tiếp cận mới, có ý nghĩa chiến lược trong việc hình thành hệ sinh thái công nghệ cao gắn với nghiên cứu, đào tạo, sản xuất và thương mại hóa sản phẩm công nghệ cao trong không gian đô thị hiện đại. Tuy nhiên, để mô hình này khả thi, cần có khung pháp lý rõ ràng hơn.
Theo đại biểu, khoản 1 Điều 24 quy định: “Đô thị công nghệ cao là đô thị có một phần diện tích là khu công nghệ cao”. Cách định nghĩa này tuy khái quát nhưng thiếu tiêu chí định lượng cụ thể, dễ dẫn đến áp dụng tùy tiện hoặc bị lợi dụng trong quy hoạch, làm giảm chất lượng và mục tiêu của mô hình.
Tại Tổ 8 (Đoàn Bắc Ninh, Cà Mau), đại biểu Nguyễn Thị Hà (Đoàn Bắc Ninh) cũng bày tỏ quan điểm tương tự. Theo bà, nếu không xác định rõ tỷ lệ diện tích hoặc tiêu chí về quy mô, mức độ tập trung của khu công nghệ cao trong tổng thể đô thị, rất dễ dẫn đến tình trạng “gắn mác công nghệ cao” một cách hình thức, phân tán nguồn lực và thiếu tính khả thi.
Do đó, đại biểu đề nghị làm rõ ngay trong luật các tiêu chí mang tính nguyên tắc, đặc biệt là tỷ lệ diện tích tối thiểu dành cho khu công nghệ cao trong đô thị công nghệ cao (chẳng hạn 5-7% diện tích đô thị) hoặc quy định rõ yêu cầu về quy mô, mức độ tập trung của khu công nghệ cao trong đô thị công nghệ cao. Các nội dung kỹ thuật, chuyên sâu sẽ do Chính phủ quy định chi tiết theo thẩm quyền đảm bảo đồng bộ, minh bạch của chính sách.
Cùng quan điểm cần tăng tính cụ thể hơn trong luật, tại Tổ 11 (Đoàn Cần Thơ, Điện Biên), đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Đoàn Cần Thơ) góp ý về tiêu chí xác định công nghệ cao được ưu tiên đầu tư, phát triển.
Ông cho rằng, các tiêu chí hiện nay còn chung chung, cần bổ sung yếu tố định lượng, như số lượng bằng sáng chế, mức đóng góp giá trị gia tăng, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao tham gia… nhằm bảo đảm tính minh bạch, có thể đo lường và đánh giá.
Đại biểu cũng đề nghị xây dựng danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư ngay trong Luật, làm căn cứ để xác định lĩnh vực cần khuyến khích, hỗ trợ hoặc ưu tiên chuyển giao công nghệ, thay vì chỉ chờ quy định chi tiết sau này của Chính phủ.
Các ý kiến tại tổ đều thống nhất rằng, Luật Công nghệ cao (sửa đổi) cần bảo đảm tính kế thừa, ổn định, nhưng đồng thời mang tầm nhìn dài hạn, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để Việt Nam bứt phá, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.