Có thể thấy, ngay việc được chuột báo ơn, mang quyển thi của Vũ Miên đến để vào nơi chấm thi khiến ông đỗ đạt chỉ là câu chuyện hoang đường và đầy tính phi lý về ông. Tuy nhiên, dân gian cũng dệt nên một câu chuyện hòng giúp vui trong cuộc bàn luận công danh mà thôi.
Bởi vì Vũ Miên là thần đồng từ nhỏ, không có chuyện tối tăm chữ nghĩa. Vả lại, ông là nhân tài được nho sĩ đương thời hết lời ca ngợi và trọng vọng, thì làm sao có chuyện phi lý như trong giai thoại được.
Sau khi đỗ, Vũ Miên ra làm quan dưới triều Lê - Trịnh, lần lượt trải qua các chức trong Kinh, ngoài trấn. Ông từng giữ chức Đồng đồng Kinh Bắc, Giản quan, Tán lý quân vụ Hưng Hóa…
Khi chúa Trịnh Sâm lên nắm quyền (tháng 2/1767), tài năng của Vũ Miên ngày càng tỏa sáng. Tháng 6 năm 1767, ông được giữ chức Hành Bồi tụng, sau đó ít lâu (tháng 9 năm 1767), ông được giao kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm 1770, Vũ Miên làm Thiêm đô Ngự sử, sau thăng Thị lang.
Cuối năm sau, ông chính thức giữ chức Nhập thị Bồi tụng và được phong tước Bá, 6 năm sau ông được phong tước Liên Khê hầu. Tháng 7 năm 1774, Vũ Miên được cử giữ chức Phó đô Ngự sử, kiêm cả Lại bộ và Binh bộ Hữu Thị lang. Từ đó cho đến lúc mất (tháng 6/1782) ông lần lượt trải qua các chức Hình bộ, Binh bộ Tả Thị lang, Nhập thị hành Tham tụng.
Nhà thờ tiến sĩ Vũ Miên tại Lương Tài (Bắc Ninh). |
Chấn hưng giáo dục, đạo tạo nhân tài
Hơn 34 năm làm quan, Vũ Miên luôn mang hết tài năng, tâm huyết ra phục vụ đất nước. Trong bối cảnh chính trị, xã hội đầy phức tạp biến động thời Lê - Trịnh, Vũ Miên vẫn giữ quan điểm hành xử của riêng mình.
Trên cương vị Tế tửu - đứng đầu hàng ngũ học quan ở Quốc Tử Giám, Vũ Miên tận tụy với sự nghiệp giáo dục. Trong khoảng thời gian 13 năm kiêm giữ chức vụ (1767 - 1780), ông đã đóng góp nhiều cho việc chấn hưng nền giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Cùng với Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Hoản, ông tu sửa lại nhà Thái học, đúc chuông Bích Ung, tham gia tổ chức các khoa thi tiến sĩ để lựa chọn nhân tài. Ông đã từng dâng khải lên chúa Trịnh xin cho sĩ tử bậc khá được phép công khai chỉ trích nhau. Từ đó chọn ra người thực tài để vào thi Hương ở các địa phương, để chuẩn bị nhân sự cho triều đình.
Ngoài ra, ông cùng Nguyễn Hoản, Uông Sĩ Lãng, Phan Trọng Phiên biên soạn sách “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” (1779), chép danh sách của các vị đỗ các khoa thi từ năm 1075 đến năm 1787. Mục đích của việc làm sách này đã được nêu rõ trong Bài tựa của sách: “Kẻ sĩ có chí xem được sách này sẽ phấn phát noi gương... truyền rộng ra khắp cả nước và truyền lại sau này, để nêu rõ việc chấn hưng văn học, tác thành nhân tài của Nhà nước là rất thịnh”.
Khi soạn sách, nhóm của Vũ Miên còn chỉ ra, lên án những gian lận, tệ nạn trong học hành, thi cử. Từ đó giúp phòng ngừa những điều xấu, gian dối, đem lại sự trong sạch, công bằng trong khoa cử.
Vũ Miên cùng Nguyễn Lệ, Phạm Khiêm, Ninh Tốn trong nhóm Cúc Lâm cư sĩ tiến hành diễn giải sách “Tam thiên tự lịch đại văn” ra chữ Nôm thành sách “Tam thiên tự lịch đại văn Quốc âm” với mục đích giúp cho sĩ tử dễ dàng nắm bắt được các sự kiện lịch sử để làm văn, làm thơ. Có thể coi sách này là giáo trình dạy chữ Hán cho học trò.
Vũ Miên không chỉ là vị quan thanh liêm, nhà giáo dục tâm huyết, ông còn là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ. Năm 1767, ông đã được giao biên soạn Quốc sử khi kiêm giữ chức Quốc sử toản tu. Năm 1775, khi làm Tổng tài Quốc sử quán, ông cùng Lê Quý Đôn, Nguyễn Hoản chủ trì biên soạn “Quốc sử tục biên” chép sự kiện lịch sử từ năm 1676 đến 1739 đời Lê Ý Tông.
Năm 1782 ông bị ốm nặng, sử chép rằng: “…Biết Vũ Miên ốm nặng, khó qua khỏi, chúa Trịnh Sâm muốn nghe lời ông, đã cử quan Trung Sứ đến thăm. Vũ Miên đã cố gượng dậy, tự tay viết tờ khải “Cúi mong chúa thượng hãy cắt đứt tình yêu nơi chăn gối, mà định thứ tự con lớn, con nhỏ cho đúng đắn thì may mắn cho thiên hạ lắm”.
Khi mất, Vũ Miên được truy tặng chức Binh bộ Thượng thư và được ban tên thụy là Ôn Cẩn. Con trai ông là Vũ Chiêu, đỗ Hương giải và làm quan đến chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu.
Cháu chắt Vũ Miên sau này cũng nhiều người đỗ đạt. Trong 200 năm (1717 - 1919) có tới 43 người thuộc dòng họ ghi danh khoa bảng - làm cho làng Xuân Lan trở thành Kinh Bắc danh hương.