Hắn nói: Ông có cô em gái xinh đẹp, nếu cho tôi được giao hoan một lần, thì chẳng cần tiền bạc, nhà cửa hay ruộng vườn gì, tôi sẽ rút lều đi ngay.
Nghe thế, Nguyễn Đức Lượng lấy làm bất ngờ vì không ngờ lại dám nói ra ước muốn không tưởng – ăn mày lại đòi “xôi gấc”. Nhưng lại nghĩ đất tốt sắp đến ngày táng rồi, mà việc cứ đình lại mãi thế này không biết làm sao, ông bèn khất với người điên để về hỏi ý kiến em gái.
Về nhà, sau bao hồi suy nghĩ, ông không đành lòng nói cho em biết. Nhưng ngày hợp táng đã gần kề, mà kẻ điên vẫn cắm lều ở ngôi đất ấy không chịu rời đi.
Chẳng biết làm cách nào hay hơn, Nguyễn Đức Lượng bèn gọi cô em gái lại, bảo: Nay anh sắp làm ngôi đất mà thằng cùi đó lại cố chấp một mực không nghe, cho của nả gì hắn cũng không nhận mà chuyển đi. Lại muốn chuyện ấy, ý em thế nào nói cho anh biết?
Người em nghe anh tâm sự, sau một lúc lâu tư lự, mới nói: Nếu vì việc ấy mà hồn phách của cha được yên, danh tiếng, khoa hoạn của anh được thành, thì anh bảo sao, em xin nghe làm vậy. Tấm thân giữ vàng, gìn ngọc này em cần gì phải tiếc nữa.
Nhiều tư liệu quý còn bảo tồn tại nhà thờ Trạng nguyên. |
Bác cháu đỗ Trạng nhờ mộ phát
Đến hôm sau, cô em gái tắm rửa sạch sẽ, chờ đêm khuya liền một mình đi đến nơi người điên ấy đang cắm lều ngủ. Sau hồi yêu đương, người điên lăn ra chết. Người em gái sợ quá, hớt hải chạy về báo với Nguyễn Đức Lượng để ngày mai đến khiêng đi chôn chỗ khác. Nhưng nào ngờ, chỉ trong một đêm, xác người điên đã được mối đùn lên lấp kín thành mộ.
Ngôi đất mà nhà Nguyễn Đức Lượng bao lâu nay tìm kiếm có hình hỏa tinh lớn nở miệng, trước mặt có con sông chia làm ba nhánh. Bên kia bờ sông chỗ hỏa tinh mở miệng, thì mộ của người điên chết ở ngay phía trên.
Nguyễn Đức Lượng thấy mối đã đùn thành mộ, nghĩ đấy là mệnh trời nên không đào mộ người điên lên táng chỗ khác. Thầy địa lý phương Bắc sau khi quan sát thế đất mới bảo rằng, ở phía bên dưới phần mộ mối đùn ấy, còn có huyệt thừa khí, sẽ táng mộ cha vào đó.
Kể từ khi táng hài cốt của cha vào bên cạnh mộ người điên, sức học của Nguyễn Đức Lượng cũng ngày một tấn tới. Đến khoa thi năm Giáp Tuất (1514) đời vua Lê Tương Dực, Nguyễn Đức Lượng đứng đầu bảng vàng. Còn người em gái của ông thì mang thai sau cái đêm hoa nguyệt với người điên, đẻ được người con trai, đặt tên là Nguyễn Thiến.
Nguyễn Thiến tư chất thông minh, được cậu là Nguyễn Đức Lượng thương yêu, chăm sóc như con đẻ, dạy dỗ thấu đáo. Sau này đến thời nhà Mạc, Thiến đỗ đại khoa như người bác của mình, người đời cho rằng chính là phát từ ngôi mộ người cha điên chưa kịp nhìn mặt của Thiến.
Dân gian nhân chuyện đỗ đạt lạ lùng ấy mà gọi Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Thiến là Trạng bác - Trạng cháu.
Theo tìm hiểu của phóng viên, thực tế Nguyễn Thiến không phải là con của kẻ điên ăn xin như trong giai thoại. Các nguồn sử liệu cho biết, cha Nguyễn Thiến là Nguyễn Doãn Toại (thường gọi là công tử Toại – PV). Toại là con trai Hoàng giáp Nguyễn Doãn Địch - làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lễ. Ông cũng là bố vợ của Thám hoa Hoàng Sầm – vị Thám hoa tài dị bậc nhất trong lịch sử khoa cử.
Em gái Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng là Nguyễn Thị Hiền. Bà Hiền kết duyên với ông Toại, và việc ông Toại chết trong đêm tân hôn - sau này được người đời truyền tụng ly kỳ như câu chuyện đã kể ở trên.
Kết quả hôn nhân ngắn ngủi của họ là Nguyễn Thiến. Nguyễn Thiến đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn 1532, niên hiệu Đại Chính thứ 3 đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan cho nhà Mạc đến chức Thượng thư Lại bộ, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, tước Thư quận công.
Sau vì bất mãn với nhà Mạc nên cùng thông gia là Đại tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly vào Thanh Hóa quy thuận nhà Lê Trung hưng. Vua Lê cho ông giữ nguyên các chức tước, đảm trách việc tuyển bổ quan lại cho nhà Lê trong 7 năm.
Nguyễn Thiến qua đời năm 1557, đời Lê Anh Tông, thọ 63 tuổi. Ông có hiệu là Cảo Xuyên, là danh sĩ có tiếng thế kỷ 16. Ông đỗ Trạng nguyên trước Nguyễn Bỉnh Khiêm một khoa – và là hai người bạn văn chương tâm đắc. Tác phẩm của ông còn lại 16 bài thơ chép trong sách “Toàn Việt thi lục”. Theo sách “Nhị Khê Nguyễn thị gia phả”, Nguyễn Thiến là viễn tổ của đại thi hào Nguyễn Du.