Trong số 99 nhà khoa bảng, nổi tiếng nhất là Nguyễn Duy Đôn được bà nội dạy dỗ từ nhỏ. Năm 18 tuổi thi đỗ Tứ trường kỳ thi Hương khoa Bính Tý (1696). Sau đó, ông lại thụ nghiệp hai vị tiến sĩ nổi tiếng thời ấy là Trần Phụ Dực và Vũ Thạnh.
Đến khoa thi Hội năm Quý Mùi (1703), Nguyễn Duy Đôn lại đỗ Tam trường. Năm Canh Dần (1710), ông đỗ thứ nhất kỳ khảo thí của bộ Lại, được nhậm chức Huấn đạo phủ Tiên Hưng. Năm 34 tuổi, ông đỗ thứ hai kỳ thi Hội khoa Nhâm Thìn (1712), và đỗ đầu kỳ thi Đình khoa thi ấy (khoa thi này không có Trạng nguyên), được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý.
Sau khi thi đỗ, ông được làm Đốc đồng xứ Thanh Hoa vào năm 1715. Rồi làm Phó Đốc thị Nghệ An vào năm 1724. Năm Nhâm Tý (1732) được thăng làm Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm Quý Sửu (1733), giữ chức Hàn lâm viện Thừa chỉ Tri Lễ phiên.
Sau đó, ông thăng chuyển sang làm Hình bộ Hữu Thị lang vào năm Giáp Dần (1734). Đến năm Bính Thìn (1736) được phong làm Binh bộ Hữu Thị lang. Vào năm Kỷ Mùi (1739), khi ở tuổi 61, ông được đặc ban chức Công bộ Tả Thị lang, về trí sĩ. Ông mất vào năm Tân Dậu (1741) thọ 63 tuổi, được ban tặng chức Công bộ Thượng thư, tước Hầu.
Những người mẹ giúp con thành tài
Làng Khả Lãm xưa đã tạo ra huyền thoại “Tam tiến sĩ đồng triều”. Ảnh minh họa |
Cha của tiến sĩ Nguyễn Duy Đôn là Nguyễn Duy Tuấn, năm 1670 dưới thời vua Lê Huyền Tông đi thi đỗ hương cống và được coi là người khai khoa của làng. Mẹ của ông là Mai Thị Biểu (Huệ Lâm), người phụ nữ đảm đang, tài trí và hết lòng vì con.
Tương truyền, bà là một người phụ nữ cần kiệm khiêm nhường, chăm chỉ cấy cày, dệt vải… Bà thường dệt the, lụa rồi mang đi khắp nơi để bán. Trong một lần mang lụa đi bán ở Chương Đức (Chương Mỹ ngày nay), bà tình cờ được chứng kiến lễ vinh quy bái tổ của một quan trạng.
Vị quan trạng ngồi trên kiệu tám đòn, xung quanh kẻ vác lọng, người che tàn, trống chiêng vang rộn, kẻ đón người đưa tấp nập, các vị hương lý, hào mục khắp vùng đều sắp lễ vật đứng hai bên đường để tung hô bái lạy.
Vị quan trạng còn rất trẻ, vận mũ áo vua ban nom thật oai vệ. Bà nghĩ: “Giá như con trai mình được như thế!”. Điều mong ước ấy nung nấu trong lòng người mẹ. Khi trở về, bà sắm sửa khăn gói, rồi đưa con đi mấy ngày đường, tìm đến thầy dạy nổi tiếng nhất vùng để xin cho con được học.
Những ngày đầu, cậu bé Tuấn còn chểnh mảng học hành, nhớ nhà, nhớ mẹ nên thường xuyên bỏ học trốn về nhà. Nhiều lần khuyên nhủ con nhưng không thành, một hôm bà gọi con đến bên khung cửi, rồi bắt chước theo chuyện bà Mạnh Cơ - mẹ thầy Mạnh Tử, chặt đứt khung cửi đang dệt dở dang.
Người con trai hốt hoảng chưa kịp ngăn mẹ thì tơ sợi đã đứt ngổn ngang. Cậu ân hận quỳ xuống bên mẹ: Thưa mẹ, con đã biết lỗi của con! Con xin hứa với mẹ, từ nay con sẽ chăm chỉ học hành để mẹ được an lòng!
Ngày hôm sau, trước khi con trai lên đường, bà lên chợ mua mấy chục vuông lụa đào, về khâu thành một chiếc võng, rồi bảo con: Mẹ khâu sẵn chiếc võng này để chờ khi con chí toại danh thành, vinh quy bái tổ.
Rồi bà bọc kỹ tấm võng, gác lên mái nhà để ngày ngày nhìn thấy mà cố gắng làm lụng nuôi con ăn học. Cảm động vì tấm lòng của mẹ, cậu con trai càng ân hận vì đã để mẹ phải buồn phiền. Cậu ra sức dùi mài kinh sử. Khi triều đình mở khoa thi, Nguyễn Duy Tuấn đỗ trung khoa, sau được cử đi làm Tri phủ Duy Tiên, đem vẻ vang về cho gia đình và quê hương.
Con trai của Tri phủ Nguyễn Duy Tuấn là Đình nguyên Hoàng giáp Nguyễn Duy Đôn – một nhà khoa bảng lớn, có nhiều mối liên hệ giáo dục và đào tạo nhân tài tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Bà Nguyễn Thị Khiếu - chị ruột của Nguyễn Duy Đôn - cũng là một người mẹ tài trí không thua kém gì bà nội. Bà đã giáo dục, dạy dỗ cả hai người con trai là Mai Danh Tông và Mai Trọng Tương thành danh.
Hai vị tiến sĩ họ Mai đều làm quan trong triều nhà Lê. Ba cậu cháu Nguyễn Duy Đôn đã tạo nên huyền thoại đương thời - Tiến sĩ đồng triều. Triều đình nhà Lê vì thế đã sắc phong cho cha mẹ của “Lưỡng tử tiến sĩ” bức đại tự “Nghĩa phương giáo huấn”.
Noi theo tấm gương của các bậc tiền bối, các thế hệ người làng Khả Lãm sau này đều biết lấy câu chuyện dạy con của những người mẹ tài trí ấy làm mẫu mực để dạy dỗ con cháu. Nhờ đó, một làng nhỏ bé với hơn 200 nóc nhà, dưới các triều đại phong kiến, tính từ vị khai khoa Nguyễn Duy Tuấn về sau này tổng cộng có 3 vị tiến sĩ triều Lê, hơn 80 vị đỗ hương cống, hoành từ và gần 20 vị đỗ tú tài, sinh đồ.