Dọc đường Ngô Nho bàn sửa lại quốc thư, ông gạt đi nói rằng: “Chúng ta vâng mệnh đi sứ, mới ra ngoài cõi đã toan chữa quốc thư, mạo chúa, chẳng những mang tội với nhà vua, mà nếu bên địch biết chỗ đó là lừa dối, cũng sẽ không tha mình. Như vậy, tai vạ lại càng to, tiếng chê cười để lại nghìn thu. Bất nhược ta cứ minh bạch mà làm, còn thắng bại là tại trời”.
Đến Phú Xuân, ông dâng trình quốc thư. Nguyễn Huệ xem xong giận vứt xuống đất lớn tiếng quát mắng. Ông bình tĩnh nói: “Xin Đại vương hãy bớt giận, để tôi nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một lời rồi chết”.
Trần Công Xán biện bác từng khoản để đối lại Nguyễn Huệ: “Xưa đức Lê Thái Tổ dẹp yên quân Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh Tông tự mình làm nên thái bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi Thạch Bi ra Bắc, từ dãy Đại Lĩnh vào Nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn kính, trải qua hàng trăm năm.
Họ Mạc tiếm ngôi, cả nước đều giận. Đấng tiên vương hội họp những người đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo cũng vì có công phò Lê, cho nên mới sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng ứng. Từ mấy đời nay, chúa Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không đổi thay, chuông khánh vẫn ở đấy, thiên hạ vẫn là thiên hạ của nhà Lê.
Đại vương ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng oai danh đã vang dậy khắp nơi, nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta tin phục mới được như vậy. Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng như thế.
Tiên đế thoạt thấy Đại vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban sách mệnh làm tước công, rồi sau sẽ phong vương, đó là điển cũ của bản triều, không phải trả ơn không hậu, chớ nên thấy như thế mà cho là bạc.
Một nước đã trải hơn ba trăm năm, trời cao chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem cả cõi đất trả lại nguyên vẹn, là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có thể lấy đấy làm ơn.
Tiên đế mất đi, Hoàng thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm trước với Đại vương. Đại vương không làm chủ thì ai làm chủ nữa. Lý đã đến thế, đừng cũng chẳng được. Tôi không dám khen ngợi để dâng lời ton hót”.
Dù bị dìm thuyền, nhưng cái chết của Trần Công Xán để lại tiếng thơm muôn đời. Ảnh minh hoạ: IT. |
Thấy trời sắp tối, Nguyễn Huệ bảo ông rằng: Thôi, hãy ra nhà trọ nghĩ lại cho kỹ. Ông đáp: Tâu đại vương, nghĩ lắm chỉ thêm quẩn thôi, ngày nay kẻ ngu thần này chỉ một chết là xong.
Bắc Bình Vương nổi giận, sai bắt bỏ ngục. Trong ngục ông vẫn cười nói như thường, lại còn đề lên tường ngục đôi câu đối: Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi nguyện học/ Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã hà vưu (Nghĩa là: Đức thường có ba điều, nếu chưa đủ, xin học/ Lòng mọn không hai, làm theo ý mình, còn oán hận gì).
Quần thần Tây Sơn thấy vậy, tâu với Nguyễn Huệ đem giết đi. Nguyễn Huệ mến tài ông muốn thu dụng, sai Trần Văn Kỷ và Võ Văn Trụ đến dụ, ông bảo với họ: “Tôi từng nghe kẻ bề tôi nguyện chết, sự ấy xưa nay đều vẫn thế, ngoài ra, không dám nghe điều gì khác”.
Nguyễn Huệ thấy không thể thu phục được ông, muốn giết đi nhưng e mang tiếng xấu, sai đô đốc Võ Văn Nguyệt sắp đặt thuyền bè đưa Trần Công Xán về Bắc. Thuyền ra giữa biển, Nguyệt sai người đục thuyền rồi phao tin thuyền bị đắm. Trần Công Xán và đoàn sứ bộ 18 người đều bị chết. Vua Lê biết tin, thương tiếc, truy phong cho ông là Trung liệt và phong làm phúc thần, truyền cho lập đền thờ tại quê nhà.
Theo tích xưa, sau khi vinh quy bái tổ, Tiến sĩ Trần Công Xán cùng các vị chức sắc địa phương đã lập Văn chỉ ở thôn Trung (An Vỹ) để khuyến khích con cháu về đạo lý nhớ ơn và tôn trọng sự học.
Sự tích về Trần Công Xán hiện được lưu giữ trong hai cuốn sách lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có tiêu đề: Tiến sĩ Trần Công Xán sự trạng (ký hiệu A.2136), Hưng Yên tỉnh Khoái Châu phủ Đông An huyện Kim Động huyện Phù Cừ huyện các xã thần tích (ký kiệu AE.a3/5).
Nhà thờ Tiến sĩ Trần Công Xán ở quê nhà Hưng Yên được dựng lại vào 1997. Hiện còn lưu giữ được một số di vật: Bài vịnh về Tiến sĩ Trần Công Xán viết bằng chữ Hán dưới triều vua Tự Đức, hoành phi, câu đối và bản sắc phong thời Nguyễn (18/11/1889) phong Trần Công Xán là “Quang ỷ Dực bảo Trung hưng Trung đẳng thần”.
Tới nay đã hơn 230 năm sau cái chết của Trần Công Xán, nhưng thanh danh và sự can đảm của ông mãi được hậu thế biết tới. Tên ông được khắc tên trên bia Tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám và Văn miếu Xích Đằng. Trong “Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập”, vua Dực Tông nhà Nguyễn có thơ rằng: Hang cọp dâng thư há quản mình/ Dặn ai, còn vẳng tiếng đinh ninh/ Lời hay, ý cứng khi tranh luận/ Chẳng đợi dìm thuyền chết cũng vinh.