Nhiều gia đình ông, cha, con cháu nối tiếp thi đỗ. Như trường hợp cụ Văn Hoằng Nghiệp đỗ năm 1645, con là Văn Hoàng Tá đỗ năm 1673, cháu là Văn Đằng Ngạn đỗ năm 1705, chắt là Văn Đằng Nhã đỗ năm 1726 và Văn Bá Đĩnh đỗ năm 1747, chút là Văn Trung Đỉnh đỗ năm 1759.
Gia đình danh nho Nguyễn Tiến Sách có nhiều người thi đỗ nhất. Bản thân và con trai thứ hai là Nguyễn Đình Toản đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Hai người em, 9 người con (4 người đỗ tam trường thi Hội và 5 người đỗ tứ trường thi Hương) và năm người cháu nội đều thi đỗ.
Họ Đỗ có cụ Đỗ Hi Thiều đỗ Tiến sĩ năm 1721, sau có 6 người con và 3 người cháu cũng đỗ đạt. Nhà khoa bảng ít tuổi nhất là Văn Bá Đĩnh cháu cụ Văn Hoằng Nghiệp đỗ năm 1747 lúc 15 tuổi và Nguyễn Đình Toàn đỗ khi 17 tuổi.
Tại nhà thờ họ Nguyễn trước đây còn có câu đối: Đồng thế đồng triều tam Tiến sĩ/ Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh quy (Cùng thời ba vị Tiến sĩ làm quan cùng triều/ Một nhà hai người thi đỗ vinh quy về làng một ngày).
Tại nhà thờ họ Đặng cũng được truyền tụng: Bách thế xưng thần lịch niên dữ quốc/ Bát thôn cư thủ do tộc nhi hương (nghĩa là: Làm quan trăm đời nhiều năm giúp nước/ Giữ đất tám thôn nhờ họ nên làng).
Hội thảo khoa học 200 năm danh xưng Vĩnh Tường 1822 - 2022 được tổ chức vào tháng 8/2022. |
Sở dĩ ở Kẻ Rưng có nhiều người đỗ đạt, vì từ xa xưa việc khuyến học luôn được quan tâm. Người xưa có cách động viên và giúp đỡ con em nhà nghèo đi học, lúc nào trong làng cũng có thầy giỏi ngồi dạy.
Trước mỗi kỳ thi Hương, khoa sinh đều phải trải qua kỳ khảo hạch theo lệ làng. Ai trúng cách được gọi là “sử sĩ”, được đi thi Hương, được vọng quan viên trong xã là chân Tư văn, ngày hội làng được ngồi trong đình.
Ai không trúng cách bị gọi là “chạ”, bị làng phạt vạ không được đi thi Hương, ngày hội làng phải ngồi dưới cầu nhị hàng. Thậm chí, ngày giỗ cha mẹ dù là con trưởng cũng không được khấn mà phải nhờ con thứ hoặc người ngoài là Tư văn khấn thay.
Ba xã Kẻ Rưng cùng thờ thành hoàng làng là Đông Kinh Phán Quan Đại vương Thượng đẳng phúc nhần, húy là Nguyễn Văn Nhượng và Công chúa nước Chiêm Thành (Lão Tiên Bà).
Theo ngọc phả về vị thần Nguyễn Văn Nhượng và lời truyền kể của nhân dân địa phương, thì đình Tứ Trưng (đình Rưng) được xây dựng từ sau khi ông mất. Phía trước cổng đình là chợ Rưng, sân đình có cây lộc vừng cổ thụ hàng trăm năm tuổi đến 3 người ôm tỏa bóng mát xum xuê, khiến cho ngôi đình mang một vẻ thâm u tĩnh lặng, cổ kính.
Bia Tiến sĩ tại Văn miếu Vĩnh Phúc ghi nhận nhiều nhà khoa bảng Kẻ Rưng. |
Ngược dòng thời gian về triều vua Lý Cao Tông, niên hiệu Trinh Phù (1176) xảy ra việc vua nước Ai Lao không chịu thần phục và dâng cống nạp cho Đại Việt theo thường lệ. Vào năm Trinh Phù nguyên niên, vua Lý Cao Tông đã giao kỳ ấn cử tướng Đông Kinh Phán quan Nguyễn Văn Nhượng làm Đốc tướng cất quân với nhiều cờ súy, chiến xa sang chinh phạt Ai Lao.
Chỉ một thời gian ngắn, ông đã phá tan quân Ai Lao, khiến chúng thua chạy, ông bắt được hơn trăm tù binh, một cỗ voi chiến và thu nhiều vàng bạc châu báu, sừng tê giác... buộc vua Ai Lao phải đầu hàng, cam kết thần phục và thi hành lệ cống nạp Đại Việt như cũ.
Về công chúa nước Chiêm Thành (Lão Tiên Bà), theo cuốn tài liệu chữ Hán viết năm Vĩnh Hựu (1735) thì có một vị tên là Lão Tiên Bà tối linh công chúa, nguyên là công chúa nước Chiêm Thành.
Vào triều vua Trần Thánh Tông, nhà vua đi chinh phạt phương Nam. Một ngày nọ, ông giong thuyền theo hướng Tây đến xã Biên Mặc bên sông Kỳ Giang thì thuyền không đi được nữa. Lúc đó trời đất tối sầm, mưa gió nổi lên, thì ra công chúa giáng trần phù giúp.
Nhà vua bèn truyền cho xã dân lập đền thờ hàng năm tế tự, làm lễ đảo vũ đều linh ứng, sự tích và ân điển đã được bao phong nhiều đời thờ cúng đầy đủ. Các triều đại sau này đều gia phong mỹ tự.