Vì trong cả 3 kỳ thi Nguyễn Đăng đều đỗ đầu, vượt hơn hẳn các sĩ tử khác nên trở thành “Tam nguyên”. Tuy nhiên, khoa thi này vua Lê Kính Tông lại ra thêm kỳ thi ứng chế.
Trước đây, việc thi thêm chỉ xảy ra nếu có 2 bài thi văn sách trở lên đều hay như nhau, không biết ai đỗ đầu. Nhưng riêng khoa thi này vua Lê Kính Tông cho thêm kỳ thi ứng chế sát hạch các sĩ tử vào đến thi Đình và một lần nữa Nguyễn Đăng lại được chấm cao nhất.
Ông được nhà vua tặng danh hiệu là Tứ nguyên – cũng là danh hiệu độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Tuy nhiên, nhân dân địa phương quen gọi ông là Trạng Tỏi.
Trích văn bia khoa thi năm 1602 – khoa mà Nguyễn Đăng đỗ Đình nguyên Hoàng giáp. |
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, phần “Khoa mục chí” ghi về sự đỗ đạt của Nguyễn Đăng như sau: Kính Tông, năm Hoằng Định thứ 3 (tức năm 1602), khoa Nhâm Dần, lấy đỗ tiến sĩ 10 người. Hội nguyên, Đình nguyên, Hoàng giáp: Nguyễn Đăng thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu.
Khoa thi Đình năm ấy không lấy Trạng nguyên mà người đỗ đầu gọi là Hoàng giáp. Với quan niệm người đỗ đầu khoa thi Đình là Trạng nguyên nên khi Nguyễn Đăng mất, người ta lập đền thờ gọi là đền Trạng nguyên. Còn như khẩu khí dân gian thì quen gọi ông với cái tên gần gũi chân quê: Trạng Tỏi - tức là ông Trạng làng Tỏi.
Nguyễn Đăng là vị quan mẫn tiệp, được vua Lê Kính Tông và Lê Thần Tông mến phục và trọng dụng. Ông được bổ nhiệm làm Hộ bộ Hữu thị lang, tước Phúc Nam hầu. Ông có người em trai tên Nguyễn Phong làm đến chức Hiến phó, tước Lĩnh Nam hầu.
Bảo tháp dưới dãy Phi Lai Phong – nơi được phỏng đoán đi vào bài phú của Nguyễn Đăng khi ông đi sứ nhà Minh. Ảnh: IT. |
Năm Quý Sửu (1613), ông cùng Lưu Đình Chất được cử đi sứ Trung Quốc. Đến nơi ông cùng sứ Cao Ly có cuộc đối đáp nổi tiếng.
Vào năm thứ 3 trong cuộc đi sứ, một lần Hoàng đế nhà Minh mở tiệc lớn nhân ngày đại khánh, có mời cả sứ thần các nước. Hoàng đế nói các sứ thần làm một bài thơ phú về chùa Phi Lai, vốn là một danh lam thắng cảnh lúc đó, hạn 5 ngày phải xong.
Mới hơn 2 ngày Nguyễn Đăng đã làm xong và trình lên bài “Phú chùa Phi Lai” (Phi Lai tự phú) và là người nộp đầu tiên. Sau 5 ngày thì hàng trăm bài thơ và phú cũng được trình lên Hoàng đế. Hoàng đế cùng các quan thấy rằng bài của Nguyễn Đăng là hay nhất, không bài nào sánh kịp.
Biết ở trong nước Nguyễn Đăng đỗ đầu tất cả kỳ thi và là Tứ nguyên, mặc dù Nguyễn Đăng không phải là Trạng nguyên nhưng Hoàng đế nhà Minh đã phong cho ông là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”, đồng thời mở tiệc chiêu đãi linh đình.
Trong bữa tiệc, Hoàng đế thử tài “Lưỡng quốc Trạng nguyên” bằng cách ra một vế đối: “Thập khẩu tâm tư, tư quốc, tư gia, tư phụ mẫu”.
Đề mà Hoàng đế ra, 3 chữ “thập” (十), “khẩu” (口), “tâm” (心) ghép lại thành chữ “tư” (思) nghĩa là nhớ. Nguyễn Đăng cũng đối ngay lại: “Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương”, vế đối lại chuẩn từ cách ghép chữ đến hàm ý bên trong. Trong đó 3 chữ “thốn” (寸), “thân” (身), “ngôn” (言) ghép lại thành chữ “tạ” (謝).
Cũng bởi việc này mà Hoàng đế cho Nguyễn Đăng được trở về nước trước hạn 7 năm. Trước khi Nguyễn Đăng về nước, Hoàng đế nhà Minh cho làm loại độc bình bằng sứ có hoa văn trang trí thật đẹp và viết bài “Phi Lai tự phú” của ông lên xung quanh lọ độc bình, để làm kỷ niệm tặng ông mang về nước.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú có chép lại bài phú này. Tục còn truyền rằng, người Trung Quốc thấy bài phú của ông đều xuống ngựa vái lạy và khắc bài phú ấy vào bia đá đề cạnh chùa...
Sau khi nghỉ hưu, Trạng Tỏi Nguyễn Đăng về làng Hán Đà thuộc tổng Quảng Lãm huyện Quế Võ mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông, nhiều người trong số đó ghi danh khoa bảng. Nguyễn Đăng đã có công xây đắp cho truyền thống giáo dục tại xứ Kinh Bắc trong quãng đời xế bóng.
Năm Đinh Dậu (1657), Nguyễn Đăng qua đời, thọ 81 tuổi. Ông được triều đình nhiều lần truy phong, tiêu biểu là lần phong danh hiệu “Tế thế trạch dân Đại Vương”. Người dân lập đền thờ ông ngay trên nền ngôi trường để tưởng nhớ. Đền thờ ông ở làng Hán Đà, xã Hán Quảng (Quế Võ) đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa từ năm 1991.
“..…Mau gót ngọc trèo lên bậc đá/ Leo thang mây bước tới cung Quỳnh./ Đài bả truyền trên nền cao, con hiên viên hai voi cùng dấu kín/ Đình bán vân trong ghi tích cổ, vở Tôn Khác một vượn kết duyên lành./ Đưa khách hoa cười tươi trước gió/ Đón xuân chim hót váng trên cành./ Rửa sạch bụi trần, nước khe biếc rồng phun bay phơi phới./ Tránh qua mây khói, ngọn thông già hạc đỗ nhẹ tênh tênh./ Cảnh trí ấy từ khi bay đến/ Giang sơn này bởi đó lừng danh”.
Trích đoạn “Phi Lai tự phú” (Nguyễn Thế Đống dịch nghĩa năm 1938)