Nhưng rồi ước mơ ấy vụt tắt vào một buổi chiều khi các em đang hối hả hoàn tất hồ sơ thi đại học. Không thấy Văn đến lớp, tôi hỏi học trò thì được biết, bố Văn vừa bị bắt trên chiếu bạc. Tôi vội vã tìm đến căn nhà xiêu vẹo, cậu học trò của tôi đang ngồi trên bậc cửa, ánh mắt vô hồn, khô khốc. Từ chiều ấy, bộ hồ sơ thi cảnh sát của em đã trở thành kỉ vật cho cuộc đời mình.
Tôi vội vàng chạy đến gặp anh Chiêu, khi thấy tôi bước vào cửa phòng anh đã lên tiếng:
- Cô đến vì học trò của mình phải không?
- Dạ vâng!
Vừa rót nước mời tôi anh vừa nói:
- Anh biết Văn là một đứa trẻ ngoan, học giỏi và giàu bản lĩnh, đủ sức để thi đỗ vào học viện cảnh sát. Nhưng bố Văn đã bị tệ nạn ăn thịt nhân cách, chứng nào tật ấy, anh ta sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vậy nên theo anh, em nên động viên cháu chọn con đường khác. Em cứ bảo cháu sang đây, anh sẽ nói cho cháu hiểu và động viên cháu thêm.
Chiều đó tan học, tôi gọi Văn ở lại. Tôi nói với Văn về cuộc gặp gỡ sáng nay của mình với anh Chiêu, Văn nhìn tôi đầy cảm kích và nói:
- Thưa cô, em đã quyết định thi Đại học Y Hà Nội, cô cứ tin ở em.
Ảnh minh họa: ITN |
Rồi Văn òa khóc nức nở. Tôi biết đó là giọt nước mắt cuối cùng cho ước mơ làm cảnh sát tan vỡ.
Bên ngoài, nắng Hè vẫn chưa thôi gắt gỏng. Vầng phượng sân trường đỏ rực. Cậu trò của tôi, áo trắng đơn sơ đi dưới vòm chiều lộng lẫy! Một bức tranh đẹp và đầy ám ảnh trong tôi.
Mùa thi năm ấy, có lẽ là mùa mà tôi mong đợi nhất, mãi đến sau này, khi con gái tôi bước vào kỳ thi lớn nhất của đời học sinh, sự bồn chồn ấy mới trở lại. Tôi ngạc nhiên tự hỏi: Điều gì đã cho tôi những khoảnh khắc tựa hồ bừng thức tình mẫu tử với Văn? Phải chăng tôi ao ước những học trò của tôi sẽ không phải sinh ra từ những ông bố như bố Văn? Hay tôi mỏi mong, con tôi có được nghị lực như em? Nhưng khi đã đi qua nhiều thăng trầm, tôi mới hiểu ra, trí tuệ hình thành từ im lặng, bản lĩnh có được bởi nghịch cảnh. Vậy nên chúng ta hãy biết ơn cuộc đời vì bất kì thử thách nào cũng cho ta cơ hội.
Ngày nhận giấy báo điểm đỗ vào Đại học Y Hà Nội, cũng là ngày bố Văn phải ra trình diện công an huyện theo giấy triệu tập. Tôi nhận được tin này từ anh Chiêu. Sáng hôm sau, đến nhà Văn, vẫn thế, cảnh vắng teo, trống hoác. Cậu trò của tôi đã ngồi trên bậu cửa tự bao giờ, mái tóc cắt ngắn, bờ vai đã vuông, ra dáng người đàn ông trưởng thành.
Trong thời gian chấp hành bản án tại trại giam Ngọc Lý - Bắc Giang, có một vài lần tôi và anh Chiêu đến thăm Trịnh. Trịnh không còn nhìn chúng tôi bằng con mắt hằn học mà thay vào đó là ánh mắt như ăn năn, như sám hối. Từ ánh mắt ấy, tôi thấy có cả sự biết ơn và sự hồi sinh của một tâm hồn.
Mới hết ba năm, Trịnh được ra tù trước thời hạn vì có nhiều thành tích và chấp hành tốt nội quy, quy định của trại giam, nên được xét giảm án trước năm tháng. Hôm ấy, tôi nhớ bầu trời rất trong, hình ảnh người chiến sĩ công an nhân dân đón phạm nhân của mình ra tù, sẽ còn đọng mãi trong kí ức của tôi. Họ đèo nhau về trong ráng chiều đỏ rực, trên con đường làng quê nghèo bao ánh mắt đổ dồn về họ, lấp lánh, tràn ngập niềm tin, niềm tin vào nhân cách được hồi sinh.
Tối đó, hai người đàn ông bên chén rượu nồng, bố Văn đã khóc, giọt nước mắt của một nhân cách được trở về cuộc đời, khiến Chiêu - người chiến sĩ công an dạn dày trận mạc thấy tim mình như vỡ ra, có một điều gì đó như nỗi dịu êm đang loang tràn trong anh! Chiêu nói:
- Thời gian hòa nhập cộng đồng cũng chính là sự thử thách với anh, phải chấp nhận búa rìu dư luận, không manh động, kiên trì, nhẫn nhịn, anh sẽ vượt qua! Tương lai của cháu nằm trong tay anh, vun xới hay bóp chết, điều đó thuộc về anh.
Từ đó, Trịnh cặm cụi bên góc vườn, bờ ruộng. Cái nón rách che tối nửa khuôn mặt, ánh mắt len lén như lúc nào cũng trĩu nặng u uẩn.
Vào một đêm trăng suông, mất điện, Trịnh tìm nến trong ngăn bàn học của con, vô tình rớt xuống nền gạch một tập giấy, nhặt lên, đập vào mắt anh là bộ hồ sơ dự thi học viện cảnh sát, trên đó nắn nót dòng tên: Trịnh Văn. Buông rơi đĩa nến, anh bưng mặt khóc rưng rức. Trong đầu anh, những hình ảnh chạy hỗn loạn: Ngày anh 20 tuổi, hình ảnh bố mẹ, những canh bạc sát phạt, người vợ tiều tụy, đứa con trai gầy xanh xao. Anh đã cướp đi ước mơ của đời nó. Anh nghĩ, có lấy cả phần đời còn lại để trả món nợ tinh thần cho những người thân yêu của mình vẫn chưa đủ. Chợt có tiếng bước chân và giọng nói quen thuộc:
- Trịnh đâu, làm ấm trà mạn nào!
Trịnh vội lau mắt chạy ra, anh Chiêu đã ngồi ghé bên mép hiên, cái dáng cao gầy đổ xuống khoảng sân gạch lấp lóa trăng. Trăng đêm đó dãi dề như soi thấu cả những khuất lấp của hồn người.
- Lại khóc à? - Anh Chiêu thong thả hỏi.
Trịnh cúi gằm khuôn mặt giấu vào hai đầu gối, bờ vai gầy guộc, lam lũ rung rung từng đợt.
Không biết có bao đêm trăng suông như thế đã đi qua cuộc đời hai người đàn ông. Chỉ biết tháng năm lấy đi và cho thêm! Đứa trẻ đi dưới vòm phượng lộng lẫy năm nào đã thành một bác sĩ. Ông bố thì già đi. Còn người chiến sĩ công an ấy - anh Chiêu đã chuyển công tác sang một huyện khác. Tôi chưa già nhưng thi thoảng đã nhớ nhớ quên quên, vậy mà câu chuyện kể với độc giả thì khảm vào kí ức rực rỡ như tấm huân chương mà nghề chèo đò đã tặng cho tôi.
Chiêu - người chiến sĩ thầm lặng đã phục sinh được những tâm hồn tội lỗi và mở ra tương lai cho biết bao số phận bất hạnh! Và tôi, mỗi lần chứng kiến những câu chuyện xô bồ bên ngoài xã hội vẫn như thấy màu áo tin cậy và quân hàm lấp lánh trên vai Chiêu. Anh cùng những người đồng đội đã đem đến bình yên cho cuộc sống này!