Văn hóa

Vị đại khoa có công quai đê lấn biển, khai khẩn đất hoang

19/05/2025 06:26

Không chỉ là Tiến sĩ khai khoa vùng Hải Hậu (Nam Định), Đỗ Tông Phát còn góp công khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, khai sinh các tổng - ấp mới để hình thành một huyện ven biển rộng lớn.

Thầy tài dạy trò giỏi

Tiến sĩ Đỗ Tông Phát, tự Tử Huấn, hiệu Mai Hiên, sinh năm Quý Dậu (1813) trong một gia đình nhà Nho nghèo tại thôn Tây, xã Quần Anh Hạ, nay thuộc xã Hải Bắc (Hải Hậu, Nam Định). Thân phụ của Đỗ Tông Phát là sinh đồ Đỗ Kim Quỹ, thân mẫu là người họ Phạm.

Ngay từ nhỏ, Đỗ Tông Phát đã mồ côi cha nên mẹ ông phải bôn ba khắp nơi làm thuê, cuốc mướn để lấy tiền nuôi con ăn học. Mặc dù sống trong điều kiện nghèo khó bần hàn, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, nhưng Đỗ Tông Phát luôn tỏ rõ là người có chí lớn bằng cách ra sức học hành thật chăm chỉ. Vốn thông minh lại cần cù nên Đỗ Tông Phát sớm nổi tiếng là một văn tài.

Dù nằm trong vùng đất học Nam Định nhưng Quần Anh khi ấy chưa có ai đỗ đại khoa. Chánh tổng Quần Anh là Nguyễn Quang Chiêu rất quan tâm đến sự học, muốn mở mang trường lớp, mời thầy giỏi về dạy nên vào năm 1838, ông ra sức mời được ông nghè Ngô Thế Vinh - người làng Bái Dương, huyện Nam Chân (nay là thôn Bái Dương, Nam Dương, Nam Trực) về dạy học và mở lớp Đại tập tại xã Quần Anh Trung.

Ngô Thế Vinh là một danh sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ, từng đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Sửu (1829), làm quan đến chức Lang trung bộ Lễ. Sau khi làm giám khảo trường thi Hương ở Hà Nội, do duyệt quyển không kỹ nên bị cách chức, ông về quê dạy học và phụng dưỡng mẹ già. Học trò nhiều người thành đạt. Vua Tự Đức thường sai Trung sứ đến nhà lấy thơ văn trước tác của ông để dâng vua xem. Sau vua lại gia ơn phục hồi học vị Tiến sĩ.

Có sách chép, ông soạn tới 72 cuốn, và là đồng biên soạn cuốn “Chuẩn định Hương Hội thi pháp”, là người đề tựa cuốn “Ức Trai di tập”. Tác phẩm chủ yếu của ông là sách giáo khoa, có tập “Dương Đình thi văn tập” và “Trúc Đường phú tập”. Ngoài ra, Ngô Thế Vinh còn biên soạn sách triết học như “Trúc Đường chu dịch tùy bút”, sách sử học như “Tống sử học”, sách về đo đạc như “Khảo xích đạo bộ pháp”.

Là một người nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam, khi về Quần Anh dạy học, thấy học trò côi cút, nhà nghèo, gầy yếu, ông nghè Ngô Thế Vinh rất thương, để tâm dạy bảo tận tình. Ông luôn để ý tới cậu học trò Đỗ Tông Phát. Giai thoại kể lại, vì nhà nghèo nên Đỗ Tông Phát đi học không có tiền mua giấy, phải ghép lá chuối khô làm vở, lấy gạch cua, hạt cây đốt làm ánh sáng học hành thâu đêm không mệt mỏi.

Vào mùa Hạ năm Kỷ Hợi (1839), trong một kỳ bình văn tổ chức tại đình Tứ Giáp, xã Quần Anh Trung (nay thuộc xã Hải Trung) quyển của Đỗ Tông Phát được thầy Ngô Thế Vinh phê “Phú trung đa hữu, gai cứ tẩm tẩm, hồ nhập giai cảnh”, nghĩa là trong bài phú có nhiều câu hay dẫn dắt người ta vào cảnh đẹp.

Đến kỳ bình văn tiếp theo vào mùa Thu, quyển của Đỗ Tông Phát lại được thầy phê “Bát vận pháp môn, ngô môn trung Trần Thúc Kiêm cử nhân hữu ngộ khiếu. Tỷ đẳng phú tân bất hứa Trần tử chuyên tỉnh”, nghĩa là: Cử nhân Trần Thúc Kiêm trường ta hiểu thấu về thể văn tám vế. Nếu đem so sánh với bài phú này hẳn sẽ không để thầy cử Trần giữ mãi chiếu trên.

vi-dai-khoa-co-cong-quai-de-lan-bien-khai-khan-dat-3.jpg
Cầu Ngói chợ Lương - dấu tích văn hóa vùng đất Quần Anh xưa.

Khai hoang, mở đất, lập huyện

Đúng như dự đoán của thầy Ngô Thế Vinh, trong kỳ thi Hương khoa Canh Tý (1840), Đỗ Tông Phát đậu Giải nguyên. Ba năm sau vào kỳ thi Đình khoa Quý Mão (1843), Đỗ Tông Phát đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khi ở tuổi 31.

Một số nguồn tư liệu cho rằng, lẽ ra trong kỳ thi này, Đỗ Tông Phát đỗ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) nhưng khi duyệt quyển, vua Thiệu Trị thấy nghĩa của một chữ chưa hay nên đánh tụt xuống Đệ tam giáp.

Khoa thi này, triều Nguyễn lấy đỗ 7 tiến sĩ, trong đó Mai Anh Tuấn đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Bá Nha đỗ Đệ nhị giáp, Đỗ Tông Phát cùng hàng Đệ tam giáp với Phạm Phú Thứ, Nguyễn Phiên, Vũ Văn Tuấn và Vũ Thanh Oai. Ông trở thành vị Tiến sĩ khai khoa vùng Quần Anh, cũng là vị đại khoa duy nhất ở Hải Hậu dưới chế độ khoa cử phong kiến.

Sau khi đăng khoa, Đỗ Tông Phát được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu, giữa hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động chính trị. Khi ở Huế, Đỗ Tông Phát đã chứng kiến cảnh dân phu khắp nơi bị mộ về xây dựng lăng tẩm và các cuộc tuần du của vua chúa vô cùng tốn kém. Thất vọng về thời thế, ông lấy cớ mẹ già đau yếu xin về phụng dưỡng.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848), triều đình lại triệu ông ra bổ chức Tri phủ Ứng Hòa, sau đó đổi vào Nghệ An làm Đốc học. Lúc này ở Ứng Hòa, tháng 8/1854, cử nhân Cao Bá Quát kêu gọi dân chúng khởi nghĩa đánh chiếm phủ lỵ. Ở Nghệ An thiên tai nghiêm trọng, dân tình bị bòn rút, đói khát nặng nề. Ngày 1/9/1858, quân Pháp bắn phá, chiếm bán đảo Sơn Trà.

Ở Nam Định, Đốc học Phạm Văn Nghị chiêu tập thân binh, tình nguyện vào Quảng Nam chống Pháp. Tình hình đất nước đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư Đỗ Tông Phát nên một lần nữa ông lại cáo quan xin về dưỡng bệnh. Khi sức khỏe phục hồi, ông chiêu mộ nghĩa binh xin triều đình cho đi coi giữ miền biên viễn phía Đông Bắc. Về sau, ông được triều đình triệu về kinh thăng hàm Quang lộc Thiếu khanh, Quốc sử Toản tu chủ trì trong cơ quan biên tu Quốc sử.

Tháng 11 năm Bính Dần (1866), vua Tự Đức chuẩn y đặt nha Doanh điền Nam Định tỉnh để khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, ngăn nước mặn và cử quan Tham tri bộ Hộ là Nguyễn Chính làm Doanh điền Chánh sứ. Tiến sĩ Đỗ Tông Phát được nhà Nguyễn điều về Nam Định giữ chức Thương biện tỉnh vụ, kiêm Dinh điền Phó sứ. Từ khi trở về quê nhà, Đỗ Tông Phát có nhiều điều kiện để phát huy năng lực.

vi-dai-khoa-co-cong-quai-de-lan-bien-khai-khan-dat-2.jpg
Nhà thờ đổ Hải Lý - một trong những dấu tích trong hành trình quai đê lấn biển thời xưa.

Các nguồn sử liệu địa phương cho biết, ngay khi nhận chức Dinh điền Phó sứ, Đỗ Tông Phát đã chiêu mộ 117 hộ gia đình thuộc hai huyện Nam Chân và Giao Thủy đến khai hoang khu bãi bồi phía Đông Quần Anh, phía Nam Hà Lạn. Công việc vô cùng gian nan, đến 1885 đã khẩn hoang được 2.813 mẫu đất. Năm 1888 lập thành tổng Tân Khai, hợp cùng ba tổng Quần Phương, Kiên Trung, Ninh Nhất, thành lập huyện Hải Hậu.

Thấy đồng ruộng của tổng Ninh Nhất khô nẻ, Đỗ Tông Phát cho đào sông Cát Giả để đưa nước phù sa vào, tiếp tục sự nghiệp khai phá đất đai của Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ trước đây ở vùng đất Cửu An, Nhất Phúc. Từ đây, cả một vùng bãi bồi ven biển hoang vu dần hình thành đồng cói mênh mông, ruộng lúa tốt tươi.

Công việc khẩn hoang tiếp tục, đến năm 1895 ra đời tổng Quế Hải với diện tích 5.705 mẫu đất. Dải đất chạy dài suốt gần 20km bờ biển, dân cư vô cùng trù phú. Niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1896), sau khi cử quan tỉnh và quan sứ đi kinh lý, triều đình nhà Nguyễn cho phép 6 xã Trùng Quang, Thanh Trà, Trung Phương, Doanh Châu, Quế Phương, Liên Phú cùng ấp Hải Nhuận thành tổng Quế Hải (nay là khu vực các xã Hải Quang, Hải Tây, Hải Đông).

Được triều đình cho phép, Đỗ Tông Phát tổ chức cùng dân đắp đê ngăn nước mặn. Sau khi các cửa sông Sâu, sông Cát, sông Múc (nhánh của sông Ninh Cơ) lấp xong, một vùng bãi lầy, sú vẹt, lau lác um tùm dần được cải tạo thành đồng ruộng. Dân cư của các vị tiên công chuyển về lập nên 4 lý công điền là Tang Điền, Kiên Chính, Hòa Định, Văn Lý.

Mặc dù, ruộng đồng trong tổng Tân Khai và Quế Hải đã hình thành nhưng công việc cầy cấy, gieo trồng còn gặp nhiều khó khăn, vất vả. Do vậy, trong thời gian dài, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát cùng với dân địa phương dành nhiều công sức cho việc đắp đê, đào sông “dẫn thủy nhập điền” thau chua rửa mặn.

Trong bài thơ “Đạo lũng xuân canh” (Đường cày mùa Xuân), Đỗ Tông Phát đã miêu tả những khó khăn vất vả trên vùng đất mới: “Biển mới nên nương đất chửa nhuần/ Thau chua rửa mặn mấy gian truân/ Đường cày xuân muộn sương mới tưới/ Khoảnh ruộng bồi non cấy gặt dần/ Bò sớm đi còn sao điểm tóc/ Bừa chiều về đã khói chen chân/ Những mong thời tiết sao cho thuận/ Non thẳm đêm đêm ngắm bóng vần”.

vi-dai-khoa-co-cong-quai-de-lan-bien-khai-khan-dat-1.jpg
Bản rập văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mão (1843), Đỗ Tông Phát đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Thương dân, dân lập đền thờ

Ngoài vai trò là một vị quan Thương biện - Dinh điền, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát còn được biết tới là một tác gia, để lại nhiều tác phẩm giá trị. Giới nghiên cứu nhận định, văn chương Đỗ Tông Phát không chỉ hay, mà còn chứa đựng triết lý thâm sâu.

Đỗ Tông Phát sáng tác nhiều thể loại: Câu đối, bia ký, thơ, phú, nhạc, giáo khoa… Những tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến, như: Khuê phạm băng kinh (giáo khoa cho nữ giới), Hiếu thuận ước ngữ (giáo khoa cho nam giới), Thủy kinh lục, Long châu thập bát vịnh, Tập lục Dương Đình phú, Mai Hiên thi tập, Sào Liên thi lục… Phần lớn các tác phẩm đều ca ngợi vẻ đẹp quê hương, kín đáo gửi gắm tâm sự về thời thế, thao thức những lo toan về công cuộc mở mang, kiến thiết ruộng đồng. Bút tích của ông nay còn ở nhiều nơi, nhất là văn bia, cùng nhiều bài ký có giá trị văn học - lịch sử.

Tiến sĩ Đỗ Tông Phát cũng là người đứng đầu các nho sĩ trong vùng Quần Anh xưa, ông tham gia soạn văn bia, khắc “Tổng khoa lục” vinh danh những người có học vị trong tổng.

Cuộc đời ông gắn liền với lẽ sống đạo nghĩa hiếu trung nên được người đời ví như tấm gương “tứ hiếu”. Cha mất, để tang suốt ba năm ròng, không đến chỗ vui chơi. Mẹ ốm xin nghỉ việc quan về phụng dưỡng, tự tay sắc thuốc, bưng cơm, tắm rửa, giặt giũ… Không trực tiếp chăm sóc được thầy, ông xin gả con gái cho con thầy, để cậy con thuốc thang, săn sóc thay mình.

Năm 1865 vỡ đê biển, Đỗ Tông Phát xuất tiền nhà cử người đi đong thóc chẩn cấp cho dân. Với con cái, ông giáo dục theo khuôn phép nhà nho, học có chí – sống có tình. Nối chí cha, năm Canh Ngọ (1870) cả hai người con của ông cùng đi thi. Con cả đỗ Tú tài, con thứ giật Giải nguyên nên được khen là “Phụ tử kế giải”.

Cùng với việc ra sức khẩn hoang, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát học theo thày dạy Ngô Thế Vinh, ra sức mở mang trường học cho con em địa phương. Năm Nhâm Ngọ (1882), ông tâu xin vua Tự Đức cho phép đem một số ruộng nhượng điền (ruộng tư) của các xã thành lập ruộng sĩ hội (học điền) nhằm giúp đỡ những học trò nghèo có thêm điều kiện để theo đuổi khoa cử.

Khi tuổi đã cao, Đỗ Tông Phát về nghỉ hưu nhưng khi thành lập huyện Hải Hậu, lại được bổ làm Tri huyện đầu tiên. Ông chọn đất xây dựng huyện đường, và chỉ sau một năm, công việc kiến thiết cơ bản hoàn thành, huyện đường đi vào hoạt động ổn định, ông mới chính thức hưu trí.

Trải qua 45 năm làm quan, dưới 7 triều vua Nguyễn (từ Thiệu Trị đến Đồng Khánh), kinh qua nhiều chức vụ, Tiến sĩ Đỗ Tông Phát được giới sử học đánh giá luôn giữ vững tiết tháo nhà nho, thanh liêm, giản dị, mang hết tài năng kinh bang tế thế đem lợi cho dân cho nước.

Năm Quý Tỵ (1893), Tiến sĩ Đỗ Tông Phát qua đời. Sau khi mất, dân hai tổng Tân Khai, Quế Hải đã suy tôn ông làm Thành hoàng làng, xây dựng đền thờ phụng ghi nhớ công ơn mãi mãi.

Hiện nay, tại đền Bảo Ninh thuộc xã Hải Phương (Hải Hậu, Nam Định) là nơi thờ Trần Hưng Đạo, Tứ tổ khai sáng và Dinh điền sứ - Tiến sĩ Đỗ Tông Phát vì đã có công khai khẩn tổng Quế Hải (một trong 4 tổng ngày đầu thành lập huyện Hải Hậu - 1888). Đền được xây dựng vào niên hiệu Tự Đức thứ 20 (1867) lúc đầu còn nhỏ bé, đến niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909) đền được làm lại với quy mô to lớn gồm 6 tòa với gần 30 gian kiến trúc. Năm 1999, đền Bảo Ninh được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Theo giaoducthoidai.vn
https://giaoducthoidai.vn/vi-dai-khoa-co-cong-quai-de-lan-bien-khai-khan-dat-hoang-post731694.html
Copy Link
https://giaoducthoidai.vn/vi-dai-khoa-co-cong-quai-de-lan-bien-khai-khan-dat-hoang-post731694.html
Bài liên quan
Chuyện học xưa và nay: Ông tổ nghề ép dầu
Sau những lần đi sứ Trung Hoa, Tiến sĩ Nguyễn Quang Tán đã học được nghề ép dầu và truyền dạy lại cho dân làng Xà, trở thành một trong những nhà khoa bảng được dân tôn làm tổ nghề.

(0) Bình luận
Nổi bật Giáo dục thủ đô
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Vị đại khoa có công quai đê lấn biển, khai khẩn đất hoang