Mùa Xuân năm Bính Thìn (1436), ông lại vâng mệnh làm chính sứ sang Minh cầu phong cho vua Lê Thái Tông. Năm Đinh Tỵ (1437) Đào Công Soạn được vua Lê Thái Tông gia thêm chức Tả thị lang sảnh Môn hạ tham gia vào việc xét bạ tịch ở Bắc đạo.
Cũng vào năm này, nhà vua sai Hành khiển Nguyễn Trãi và Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc suất làm loan giá, nhạc khí, dạy tập nhạc múa. Nguyễn Trãi kiên trì quan điểm: “Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc”.
Hội thảo 'Người họ Đào ở xứ Đông trong tiến trình lịch sử của đất nước' diễn ra vào tháng 7/2023. |
Quan niệm đề cao giá trị của lễ nhạc dân tộc, thanh âm cuộc sống dân gian của Nguyễn Trãi là hết sức tiến bộ và được giới trí thức chân chính ủng hộ. Tiếc rằng nhà vua đã nghiêng theo hoạn quan Lương Đăng chế định lễ nhạc hoàn toàn rập khuôn máy móc theo lễ nhạc của ngoại bang.
Đào Công Soạn đã cùng Nguyễn Trãi, Nguyễn Truyền, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Liêu dâng sớ vạch tội Lương Đăng là “dối vua, lừa dưới”, là “làm nhục cho nước”.
Hành động dũng cảm đấu tranh bảo vệ đến cùng hồn cốt văn hóa, thanh âm, lễ nhạc dân gian của các nhà văn hóa đại diện cho dân tộc cuối cùng đã bị đàn áp. Quan điểm xây dựng một nền văn hóa, lễ nhạc tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Trãi và Đào Công Soạn đã không được vua Lê Thái Tông chấp nhận, nhưng nó cũng đã để lại một tấm gương ngời sáng, một nhân cách cao thượng và bài học vô giá cho đời sau.
Năm Thái Hòa thứ ba Giáp Tý (1444) khi đã gần ở “tuổi xưa nay hiếm”, ông tiếp tục được tin tưởng cử đi sứ nhà Minh lần thứ ba. Do có nhiều công lao nên khi về nước, ông được thêm chức hầu giảng ở tòa Kinh diên.
Văn bia thứ nhất Văn miếu Hưng Yên ghi 'Đào Công Soạn, đỗ Giáp đẳng khoa thi năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiên Khánh thứ 1 (1426) đời vua Lê Thái Tổ'. |
Mùa Hạ năm Kỷ Tỵ (1449) khi ấy đã 69 tuổi, nhận thấy tuổi cao sức yếu, ông nhiều lần xin vua Lê Nhân Tông cho về nghỉ hưu, nhưng nhà vua không những không chấp thuận, mà còn “mấy lần thăng đến Nhập nội Đại Hành khiển, coi việc ba quán” (là các quán Nho lâm, Sùng văn và cục Tú lâm).
Đến năm Bính Tý (1456) khi ông đã 76 tuổi, vua Lê Nhân Tông cho ông là bậc “cựu thần am hiểu, sai lên vùng biên giới thuộc Thái Nguyên khám định bờ cõi”.
Ông đã hoàn thành sự ủy thác cao cả của nhà vua, nhưng công việc vô cùng gian lao. Hai năm sau, sau một chuyến đi chấm thi trở về kinh đô, ngày 29 tháng 8 năm Mậu Dần (6/10/1458), ông qua đời ở tuổi 78.
GS.TS.NGND Nguyễn Quang Ngọc nhận xét: Trong lịch sử Vương triều Lê, Nguyễn Trãi và Đào Công Soạn là hai trí thức Nho học tiêu biểu nhất với những đóng góp mang tầm thời đại. Tuy đến với đại khoa, trở thành đại trí thức Nho học, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành quan chức cao cấp của triều đình.
Thế nhưng cuối cùng Nguyễn Trãi lại bị chính cái thể chế mà ông toàn tâm toàn ý phụng sự ruồng bỏ và hãm hại. Chỉ có Đào Công Soạn dù dưới vương triều nào, trong điều kiện khó khăn và nghiệt ngã đến đâu cũng đều được ưu ái và trọng vọng, trở thành danh thần trọn vẹn, một trí thức khuôn mẫu không chỉ của riêng thời Lê sơ, mà của các triều đại về sau.
Theo tư liệu của dòng họ, khi mới tham gia vào chính sự của triều đình nhà Lê, Đào Công Soạn đã được vua Lê Thái Tổ đặc biệt quý trọng và phong tặng 6 chữ: “Thanh liêm, công bình, cần mẫn”.
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú đánh giá Đào Công Soạn “là người ôn hòa, kính cẩn, kiệm ước có phong độ bậc danh thần. Thơ ông cũng thanh thoát, ý tứ dồi dào, đáng ngâm”.
Nhà thờ họ Đào xây dựng từ thế kỷ 19, qua nhiều lần trùng tu luôn dành gian trung tâm thờ Đào Công Soạn. Nhà thờ hiện còn lưu giữ được câu đối, đại tự, bi ký ca ngợi công lao, tài năng, đức độ của ông.
Đặc biệt, có bức cuốn thư sơn son thiếp vàng đề 6 chữ do vua Lê Thái Tổ ban tặng cho ông “Thanh liêm – công bình – cần mẫn”. Tôn vinh công trạng của Đào Công Soạn, hiện tên của ông được chọn để đặt tên cho nhiều đường phố trong khắp cả nước.