Chuông Ngọ Môn, phù điêu đá thời Minh Mạng, ngai hoàng đế Duy Tân, tượng rồng thời Thiệu Trị là bốn bảo vật quốc gia triều Nguyễn đã được công nhận.
Theo TS Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao TP Huế, Ngọ Môn là biểu tượng của văn hóa cung đình. Ngọ Môn 5 cửa, cầu 6 vài (vì), tháp 7 tầng. Các con số 5 - 6 - 7 (tổng là 18) - theo quan niệm Đông phương là biểu trưng của sự hoàn hảo.
“Người xưa đã xem Ngọ Môn là một kiệt phẩm. Bài thơ khắc trên Ngọ Môn đã nói lên niềm tự hào ấy: “Bất đãi trùng môn khai/Dĩ vô nhất ẩn xứ/Nghiên sy khả thị nhân/Động triệt kham gia nhữ” (Cửa cung không đợi mở/ Bởi cần giấu giếm chi/ Xấu đẹp đều phô bày/ Làm đẹp thêm người thay)”, TS Phan Thanh Hải cho hay.
Theo nghiên cứu, Ngọ Môn được xây dựng sau khi Hoàng đế Minh Mạng hoàn chỉnh việc quy hoạch, sắp xếp lại toàn bộ Hoàng thành và Tử Cấm thành. Việc xây dựng Ngọ Môn được khởi công vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), sau khi triệt hạ Nam Khuyết đài và điện Càn Nguyên. Thượng thư Binh bộ là Lê Văn Đức được chỉ định làm người chỉ huy công trường.
Một khối lượng khổng lồ gạch, đá, ngói, gỗ, vôi, mật và cả xà đồng, đinh sắt đã được huy động để xây dựng chiếc cửa lớn nhất của Hoàng cung. Chất lượng xây dựng Ngọ Môn cũng được xếp vào hàng đặc biệt, vữa xây được gia thêm rất nhiều mật so với bình thường. Triều đình còn cho chi cả dầu trẩu để làm keo dán ghép các lớp gạch đá bên ngoài để tăng độ bền vững và tính mỹ thuật của công trình.
Riêng tại 3 chiếc cửa vòm cuốn chính giữa trổ xuyên qua nền đài, các xà đồng lớn đã được dùng để gia cường sức chịu lực, một việc chưa hề có tiền lệ trong xây dựng trước đó. Chính sự đầu tư lớn lao đó đã tạo nên một Ngọ Môn bền bỉ dù trải qua khoảng 190 năm với bao biến động thăng trầm, vẫn tồn tại vững vàng, hiên ngang như thuở ban đầu.
Về kiến trúc tổng thể, Ngọ Môn được chia làm hai phần chính, gồm phần nền đài và lầu Ngũ Phụng. Đài cao gần 5m, diện tích chiếm đất hơn 1.560m2 (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ 5 cửa, trong đó cửa chính giữa là Ngọ Môn, cửa này chỉ dành cho vua đi. Hai cửa bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn, dành cho các quan văn, võ theo cùng trong đoàn ngự đạo. Hai cửa ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U được gọi là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu.
Lầu Ngũ Phụng đặt ở phía trên đài, được tôn cao bởi một hệ thống nền cao 1,15m và cũng chạy suốt thân đài hình chữ U. Lầu có hai tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẵn 100 cây cột. Tầng lầu bên dưới của Ngũ Phụng lâu phần lớn đều để trống, chỉ trừ tòa nhà chính giữa là có hệ thống cửa - kiểu “thượng kính hạ bản” ở mặt trước và che ván - vách ở các mặt còn lại để bảo đảm cho sự kín đáo của nơi thiết ngự tọa mỗi khi vua ngồi dự lễ.
Ở hai cánh hai bên, theo nguyên tắc truyền thống “tả chung, hữu cổ”, gian ở góc bên trái cánh chữ U đặt chuông, gian ở góc bên phải đặt trống. Chiếc trống hiện nay là chiếc trống đã được phục chế, còn chiếc chuông vẫn là chiếc chuông nguyên thủy, cao gần 4 thước (1,8m), nặng 1.359 cân (815kg), do vua Minh Mạng sai đúc vào năm 1822.
Theo hồ sơ di sản, chuông Ngọ Môn là chiếc chuông duy nhất (mang tính độc bản), đặt tại cổng chính phía Nam của Hoàng thành Huế. Hiện vật được đánh giá là kiệt tác tiêu biểu, độc đáo, thể hiện đỉnh cao của kỹ nghệ chạm khắc đá và trình độ, kỹ thuật điêu khắc gỗ của các nghệ nhân dưới thời nhà Nguyễn.
Chiếc chuông này dùng để sử dụng trong các nghi lễ cung đình, được xem là “biểu tượng” của triều Nguyễn. Đây là tác phẩm mỹ thuật đặc sắc của ngành điêu khắc, hội họa, kỹ nghệ đúc đồng thời Minh Mạng nói riêng và dưới thời triều Nguyễn nói chung.
Dáng chuông Ngọ Môn có hình trụ ngắn, bên trên nhỏ, bên dưới hơi phình. Quai chuông là tượng hai con rồng (còn gọi là bồ lao) đấu lưng vào nhau. Chuông được trang trí hoa văn đẹp mắt, các nét đúc sắc sảo.
Bên cạnh đó là các chữ viết, hoa văn, hình tượng còn rất rõ nét. Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi chép cụ thể điển lệ việc đúc chuông, cách thức, số lượng cũng như quy cách sử dụng của từng loại chuông trong “Đại Nam thực lục” tùy theo tính chất, vị trí và nội dung của từng nghi lễ.
Hiện vật thứ 2 là ngai vàng hoàng đế Duy Tân, có kích thước nhỏ hơn ngai hoàng đế triều Nguyễn tại điện Thái Hòa (hiện vật được công nhận bảo vật quốc gia năm 2015).
Hồ sơ di sản cho biết, ngai vàng hoàng đế Duy Tân là hiện vật gốc độc bản, với kiểu thức, hoa văn trang trí kỹ thuật sơn son, thếp vàng thể hiện sự phong phú, đa dạng của nghệ thuật điêu khắc gỗ. Chiếc ngai vàng được triều đình nhà Nguyễn đặc chế riêng cho vua Duy Tân khi ông lên ngôi năm 7 tuổi.
Hiện vật này đang được trưng bày và bảo quản tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Kiểu thức, hoa văn trang trí trên ngai áp dụng kỹ thuật sơn, thếp vàng cùng kỹ thuật chạm nổi tinh tế, tinh xảo và hoa mỹ.
Ở lưng ngai phía trên có một hình mặt trời và ở dưới là hình chữ thọ. Riêng mặt trời có 5 tia chếch lên, trong đó 1 tia ở trên là trung tâm và đối xứng mỗi bên là 2 tia. Tất cả được bao quanh là các dải mây đối xứng và có bố cục trông như một bông hoa theo lối bổ dọc.
Phần bệ ngồi và đế có kiểu chân quỳ. Đế hình chữ nhật, ngai được đặt ở trên chiếm phân nửa chiều dài thuộc phía sau, phân nửa còn lại thuộc phía trước có gắn hai con lân và chân của đế hoàng đế đang gác lên. Bên cạnh đó còn hình tượng long phù ở hai góc và chân ngai với móng vuốt của rồng, trong đó mỗi bên 5 móng.
Hoàng đế Duy Tân sinh ngày 19/9/1900, lên ngôi ngày 5/9/1907, là hoàng đế thứ 11 của triều Nguyễn (1802 - 1945) khi ông mới 7 tuổi. Để phù hợp với vóc dáng của hoàng đế, triều đình đã cho đặc chế chiếc ngai với kích thước nhỏ dùng trong lễ đăng quang của nhà vua.
Hiện vật thứ 3 chính là phù điêu bằng đá thời Minh Mạng. Hồ sơ di sản cho biết, đây là hiện vật bằng đá cẩm thạch duy nhất lưu lại dấu ấn của hoàng đế Minh Mạng, thể hiện thông qua bài thơ “Ngự chế” và bài “Minh” được khắc trên 2 mặt của phù điêu. Đây là kiệt tác tiêu biểu, độc đáo, không chỉ thể hiện đỉnh cao của kỹ nghệ chạm khắc đá, mà còn cho thấy trình độ, kỹ thuật điêu khắc gỗ của các nghệ nhân dưới thời Nguyễn.
Theo TS Phan Thanh Hải, phù điêu bằng đá thời Minh Mạng, trước đây còn được gọi là “bức trấn phong thời Minh Mạng”, được làm từ đá đỏ Điền Trì (Vân Nam, Trung Quốc). Có thể nguồn đá quý hiếm này là tặng phẩm của triều đình Trung Hoa cho hoàng đế triều Nguyễn, hoặc có thể là quà tặng của giới thương nhân hay sứ đoàn ngoại giao khi đến Huế đầu thế kỷ 19.
Sở dĩ, giới nghiên cứu gọi đó là “bức trấn phong” vì hiện vật này được tạc theo hình mặt nguyệt, đường kính 53cm, ngoài khung gỗ, dưới có giá gỗ mun chạm trổ công phu, trông như tấm gương lớn thường được đặt để chắn tà khí trong chốn hoàng cung, phủ đệ phương Đông.
Bảo vật là một kiệt phẩm về nghệ thuật chạm trổ đá quý. Với những mảng chạm lồi lõm, chi li, tỉ mẩn, cách bố cục không gian đầy sáng tạo, nghệ nhân xưa đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp với đầy đủ đình tạ, lầu các, cầu cống, non bộ, cổ thụ, mây trời, mặt nước, con thuyền, chim muông…
Ở mặt trước, vua Minh Mạng cho khắc một bài thơ thất ngôn bát cú chia thành hai nửa, ẩn hiện ở khoảng không bên dưới bầu trời gợn mây, ghi năm “Ngự chế” 1829. Ở mặt sau, vua Minh Mạng cho khắc một bài “Minh” dài 16 câu, cũng do vua sáng tác năm 1825.
Có thể xem nội dung của bài thơ là triết lý sống pha lẫn chút nỗi niềm về thế sự, về cuộc đời của vị hoàng đế lừng lẫy danh tiếng của vương triều Nguyễn: Đỏ xanh nhiều lớp khéo làm thành/ Điền Trì đá quý đáng nêu danh/ Lâu đài kiên cố ngàn năm đó/ Cây cối um tùm tám tiết xanh/ Người có đường đi sao vội gấp/ Thuyền không gió thổi cớ sao nhanh/ Khéo công trau chuốt rồi hư hại/ Vụng về chạm trổ lại còn dành (Phan Thanh Hải dịch).
Hiện vật thứ 4 được công nhận là bảo vật quốc gia, là cặp tượng rồng thời vua Thiệu Trị. Đây là bộ hiện vật bằng đồng có giá trị lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, là đỉnh cao của sự tích hợp, mô phỏng hình dáng các chiếc “kim ấn bảo tỉ” được đúc dưới các triều từ Minh Mạng đến Thiệu Trị với kiểu thức hình rồng quấn.
Theo hồ sơ di sản, bộ hiện vật này được đặt ngay trước sân của nhà hát Duyệt Thị Đường, Đại Nội Huế. Thông qua hình ảnh rồng đặc trưng dưới triều Nguyễn, với các mô típ long ẩn vân, hoa cúc - mặt trời và hoa văn trang trí mây, đao lửa, hồi văn chữ công… mang ý nghĩa biểu trưng với vai trò thiên tử, mang thiên mệnh, thể hiện quyền lực vững mạnh của vương quyền cùng khát vọng đất nước thái hòa, thịnh trị, nhân dân thái bình, ấm no…
Theo TS Phan Thanh Hải, hình tượng rồng xuất hiện trong nghệ thuật Việt rất sớm, nhưng phải đến thời Nguyễn, hình tượng rồng mới đạt đến sự phong phú tối đa về đề tài, chất liệu và hình thức biểu đạt.
Hình rồng được tạc thành núm ấn với nhiều kiểu dáng sinh động nhưng uốn khúc tư thế chầu, ngồi xổm, nằm sấp, nằm ngửa, được thể hiện trên nhiều chất liệu như gỗ, đá, đắp vữa khảm sành sứ, sơn mài, sơn thếp vàng bạc, ngọc, ngà, xương, đồ pháp lam, đồ gốm sứ, đồ dệt, thêu... trở thành một đặc trưng của văn hóa Việt thời Nguyễn.
Dưới thời Nguyễn, lăng của các vị vua chúa nói chung, đặc biệt lăng vua Thiệu Trị hình tượng rồng thể hiện vẻ đẹp uy nghiêm, ý nghĩa huyền diệu đặc trưng của biểu tượng, tạo nên những giá trị thẩm mỹ, lịch sử và nghệ thuật đặc sắc. Hình tượng rồng không chỉ được chạm khắc trang trí trên những khối đá, mà còn được thể hiện ở nhiều chất liệu khác nhau, luôn được đặt ở vị trí trung tâm, chủ đạo.
Cặp tượng rồng thời Thiệu Trị được chế tác vào năm 1842, ngoài kiểu thức rồng cuốn, hình tượng rồng ở hiện vật được thể hiện trong tư thế uyển chuyển, mạnh mẽ, với thân hình uốn lượn, đầu ngẩng cao và miệng há. Phần vảy rồng, móng vuốt và bờm được chạm khắc tỉ mỉ, sống động.
Được đặt ngay trước sân của nhà hát Duyệt Thị Đường, cặp tượng rồng thời vua Thiệu Trị còn gắn với điệu múa cung đình có tên “Long Hổ hội”. Điệu múa này thường được biểu diễn trong những ngày khánh hỷ của triều đình.
Hình tượng con rồng trong điệu múa này mang ý nghĩa trời đất hòa hợp, mưa thuận gió hòa. Ngoài biểu tượng của trời, long còn đại diện cho vua (con trời), long xuất hiện đồng nghĩa với trời hoặc vua ban điềm lành cho khắp thiên hạ.
Trong “Long Hổ hội”, khi thể hiện hình tượng rồng xuất hiện, nghiêng mình bay xuống, diễn viên sử dụng vũ đạo của tuồng để diễn tả rồng dương oai, rồng vuốt râu, rồng khỏa nước, rồng lặn xuống nước, rồng lắc mình rũ nước… Điệu múa kết thúc bằng hình tượng rồng đứng tấn để hổ nhảy chân phải đứng trên chân trái của rồng.
Với việc công nhận thêm 4 hiện vật thời Nguyễn, tính đến nay, TP Huế có 14 hiện vật, nhóm hiện vật (với tổng số 41 hiện vật) được công nhận là bảo vật quốc gia, gồm: Bộ Cửu đỉnh (9 hiện vật), Cửu vị Thần công (9 hiện vật), ngai vàng điện Thái Hòa, áo tế Giao thời Nguyễn (Long cổn), bia Khiêm cung ký tại lăng vua Tự Đức, đại hồng chung chùa Thiên Mụ, bia Ngự kiến Thiên Mụ tự (chùa Thiên Mụ), bệ thờ Vân Trạch Hòa (Champa), bộ chóp tháp Linh Thái (Champa - 2 hiện vật), bộ vạc đồng thời chúa Nguyễn (10 chiếc), chuông đồng Ngọ Môn thời Minh Mạng, ngai vàng vua Duy Tân, cặp tượng rồng thời Thiệu Trị, phù điêu đá thời Minh Mạng.