Những diễn giả Phan Chu Trinh, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, được công chúng hâm mộ và nổi tiếng về tài diễn thuyết. Vì vậy thơ khuyết danh mới có câu: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/ Kỳ bình văn khách đến như mưa”.
Không hô hào suông, sĩ phu còn làm gương cho dân chúng và cũng là để gây quỹ hoạt động cho Đông kinh Nghĩa thục, họ hùn vốn mở công ty. Hoàng Tăng Bí mở Công ty Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai - cũng chính là tư gia của ông ngoại - cụ Nguyễn Trọng Hiệp, Kinh lược xứ triều Nguyễn và là thầy dạy vua Thành Thái.
Công ty chuyên buôn bán hàng nội và mở xưởng dệt xuyến hoa, làm trà ướp… Kính phục Hoàng Tăng Bí và các sĩ phu, trong diễn ca “Nam Thiên phong vận”, nhân dân ca ngợi: “Xã Đông Ngạc Hoàng quân Tăng Bí/ Tánh thông minh tuổi trẻ khác thường/ Tướng môn dòng dõi họ Hoàng/ Á môn giá cũng xem thường nhẹ không/ Đêm ngày dốc một lòng vì nước/ Đông Thành Xương đứng trước ra buôn… Cho hay những bậc tài danh/ Vì giang sơn phải dấn mình bước ra”.
Hoạt động yêu nước của Đông kinh Nghĩa thục và vụ đầu độc để giết lính Pháp trong Thành Hà Nội (1908) làm cho thực dân Pháp kinh hoàng. Chúng bắt đóng cửa trường và công ty của các sĩ phu. Hoàng Tăng Bí bị kết án 5 năm khổ sai đưa đi Côn Đảo. Nhờ có nhạc phụ là Cao Xuân Dục - Thượng thư bộ Học bảo lãnh, sau 1 năm ở Hỏa Lò, Hoàng Tăng Bí bị đưa đi quản thúc tại Huế 15 năm.
Giúp con nối chí vì nước
Dòng họ Hoàng đã làm vẻ vang cho làng khoa bảng Đông Ngạc (Đình Đông Ngạc). |
Trong thời gian “tù treo” ở Huế 15 năm, biến họa thành phúc, Hoàng Tăng Bí dùi mài kinh sử để đi thi và đỗ Phó bảng năm 1910. Không ra làm quan, ông mở trường tư dạy học, viết kịch bản của ba vở tuồng: Đệ bát tài tử Hoa Tiên ký (nhà in Mạc Đình Tư xuất bản, 1913); Nghĩa nặng tình sâu - tuồng Mị Châu Trọng Thủy (nhà in Nghiêm Hàm xuất bản, 1926); Thù chồng nợ tước - tuồng Trưng Trắc Trưng Nhị (nhà in Tân Dân xuất bản, 1927).
Sau 15 năm bị quản thúc ở Huế, năm 1929 Hoàng Tăng Bí trở lại với nghề dạy học xưa, dạy Việt văn ở trường Gia Long. Tuy nhiên, thực dân Pháp biết tiếng nên đề phòng bằng cách cấm không cho dạy. Hoàng Tăng Bí liền cộng tác với báo “Trung Bắc tân văn”, viết nhiều bài về đạo đức, nhân cách của người cầm bút trong thời đại Âu hóa.
Ngoài ra, ông cũng dịch một số tác phẩm của văn học Pháp nhưng không có điều kiện xuất bản. Đặc biệt, ông đã nghiên cứu và viết cuốn “Lược khảo lịch sử Trung Quốc”, lấy bút danh Tiểu Mai mong người nước Nam soi vào gương thành bại của họ để cứu nước.
Chí khí và lòng yêu nước của Hoàng Tăng Bí đã ảnh hưởng lớn đến con trai – GS Hoàng Minh Giám. Trong khi cha còn bị quản thúc ở Huế, thì Hoàng Minh Giám đã hoạt động trong phong trào yêu nước và dân chủ, viết cho báo “Tiếng chuông rè” của Nguyễn An Ninh, “Người nhà quê” của Nguyễn Khánh Toàn, “Nước Nam mới” của Phan Văn Trường.
Để dẹp yên phong trào đấu tranh đang diễn ra mạnh mẽ, chính quyền thực dân đã tổ chức một cuộc đối thọai với sinh viên tại trụ sở thanh niên ở phố Vọng Đức.
Bài diễn văn do Hoàng Minh Giám và Nguyễn Khánh Toàn soạn thảo vạch trần chính sách áp bức, bất công, sự cách biệt trong đãi ngộ giữa người Pháp với người Việt, chính sách ngu dân, lừa bịp của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Bài diễn văn nảy lửa đã khiến chính quyền thực dân sôi máu, ra lệnh truy tìm gắt gao tác giả. Nguyễn Khánh Toàn bị lộ nên phải trốn vào miền Nam. Đối với Hoàng Minh Giám, tuy biết là có tham gia nhưng vì không có chứng cứ nên không làm gì được, vẫn phải cho đỗ tốt nghiệp.
Hoàng Tăng Bí không chỉ họat động văn hoá mà còn là trụ cột vững chắc cho tư tưởng và hành động của Hoàng Minh Giám - khi quyết định mở trường tư thục Thăng Long năm 1935.
Trong lễ kỷ niệm thành lập trường, GS Hoàng Minh Giám đã viết: “Trong thâm tâm của anh em chúng tôi, cái danh từ nền tư thục gợi nhớ đến Đông kinh Nghĩa thục. Chúng tôi thầm nghĩ trường Thăng Long phải xứng đáng là một nghĩa thục theo gương Đông kinh Nghĩa thục nhưng phải khôn khéo để có thể tồn tại lâu dài”.
Hoàng Tăng Bí hài lòng vì đã có người con nối chí nối nghiệp giúp dân cứu nước. Ông qua đời ở tuổi 56 tại quê hương Đông Ngạc vào năm 1939.
“Trải qua gần một thế kỷ, vẫn còn nguyên trong khuôn viên khu nhà thờ tổ - tính từ cụ tổ của chi họ thứ ba là Hoàng Tướng Hiệp - ông nội cụ Hoàng Tăng Bí, bức hoành phi lớn đã được sơn son thếp vàng, sắc phong vua ban trang trọng đặt trong bàn thờ tổ. Từ mảnh đất Đông Ngạc khoa bảng, con cháu cụ Phó bảng Hoàng Tăng Bí đã nối nghiệp, đóng góp cho quê hương, đất nước…”. - ThS Phạm Kim Thanh, Bảo tàng Lịch sử quốc gia.