Triển lãm về đồ gỗ thời Nguyễn là một trong các trưng bày hiếm hoi không chỉ của Bảo tàng Lịch sử TPHCM, mà còn đối với mọi bảo tàng ở Việt Nam cũng như trong khu vực. Bởi tính chất không bền bỉ, hay bị mối mọt và nguy cơ hoả hoạn tàn phá nên nhiều tác phẩm gỗ cổ xưa không còn tồn tại hoặc ít giữ được vẻ nguyên vẹn, hoàn hảo.
Tuy nhiên, 150 hiện vật trong “Sắc mộc - Nghệ thuật điêu khắc gỗ thời Nguyễn” không chỉ hoàn hảo mà còn thể hiện rõ những câu chuyện lịch lý thú, những tư tưởng thẩm mỹ của thời đại, phản ánh rõ tay nghề và sự tỉ mẩn của nghệ nhân xưa.
Như ý nghĩa cát tường với bộ sưu tập bút, cuốn thư hàm ý đại diện cho văn chương thi phú của nhà Nho. Trong khi đó, kiếm và các binh khí thể hiện cho sức mạnh của nhà võ. Quạt, gậy như ý là pháp bảo của các vị tiên thể hiện điềm lành, bình an. Tất cả theo một ý đồ thể hiện văn - võ song toàn.
Không gian thờ cúng trong ngôi nhà cổ dân gian truyền thống lại có các hiện vật, như: Bàn thờ, các bộ bao lam được chạm trổ những đề tài phản ánh cảnh sắc trong tự nhiên (sóc giác, hoa điểu…) cùng hệ thống hoành phi, liễn đối chữ Hán có nội dung khuyên răn con cháu ghi nhớ công lao tổ tiên.
Khay gỗ chạm chữ Thọ với các nét đục kênh bong uyển chuyển. |
Không gian tiếp khách trong ngôi nhà cổ dân gian truyền thống với điểm nhấn là chiếc trấn phong cùng bộ bàn ghế bành tượng, được khảm xà cừ ngũ sắc và cẩn đá màu tạo thành nét đẹp rất đặc trưng. Hiện vật trưng bày có mảng chạm khắc bài “Sơn cư thu minh” của Vương Duy và “Xuân sơn nguyệt dạ” của Vu Lương Sử (thời nhà Đường, Trung Quốc).
Các hiện vật gắn với triết lý, châm ngôn về giáo dục, bồi dưỡng người hiền được thể hiện qua đề tài trang trí trên các hiện vật như trường kỷ, hoành phi, liễn đối, tranh thư pháp, án thư… trong không gian thư phòng hay phòng khách với mục đích cổ vũ tinh thần khuyến học cho con cháu.
Do nhu cầu phổ biến các điều luật, ghi lại sự kiện lịch sử và lưu truyền văn hóa truyền thống nên mộc bản thời Nguyễn ra đời và được chế tác rất nhiều, bằng các loại gỗ như thị, mít, táo. Ngoài giá trị về mặt kỹ thuật chế tác và mỹ thuật trình bày, mộc bản còn có giá trị về mặt sử liệu.
Theo giới chuyên gia, thời Nguyễn cùng với nhu cầu xây dựng trang trí điện đài cung tẩm là nhu cầu hưởng thụ cái đẹp cùng những nét tinh hoa mới bởi sự du nhập của văn hoá phương Tây. Bởi vậy, mỗi sản phẩm ngoài nét đặc trưng mang hồn cốt phương Đông còn có sự tiếp biến ý tưởng của văn hoá phương Tây.
Điêu khắc gỗ thời Nguyễn đã tạo nên một phong cách riêng biệt cùng kỹ thuật tinh xảo hiếm có. Vì thế, sự ảnh hưởng đó ít nhiều tác động đến tư tưởng để hình thành các sản phẩm dân gian. Thời kỳ này, Huế giữ vị thế là đầu tàu của nền nghệ thuật dân tộc, cả nghệ thuật cung đình cao sang quý phái và nghệ thuật dân gian sinh động, phong phú.
Nổi bật và phổ biến nhất trong điêu khắc nghệ thuật thời Nguyễn là hình tượng Tứ linh (long, lân, quy, phượng). Dẫu đây là hình tượng nghệ thuật có từ sớm, phát triển liên tục qua các triều đại nhưng phải đến thời Nguyễn, các hình tượng này mới hoàn chỉnh và có phong cách riêng. Hiện, nhiều di tích đình, đền, chùa… còn giữ được các đồ án điêu khắc được đánh giá là những tuyệt phẩm của nền nghệ thuật điêu khắc gỗ thời Nguyễn.