Tuy nhiên, chi phí cho việc dựng một tấm bia rất tốn kém vì phải chọn loại đá tốt rồi vận chuyển từ Thanh Hóa ra. Nguyễn Quý Đức đã đi quyên góp từ dân và bỏ tiền túi của mình ra chi trả.
Sách “Tục biên công dư tiệp ký” có viết: “…Trải hai năm công việc mới xong, phí tổn tới hàng vạn mà triều đình chỉ ban cho 1.000 quan tiền, còn thì đều do gia đình ông chi ra”.
Sau khi trông nom công trình hoàn tất, ông xin nghỉ việc. Trong tờ khải dâng lên chúa Trịnh, ông viết: “Nghĩ mình được lạm gánh trách nhiệm nặng nề, thẹn không xứng đáng làm men để chế rượu, làm muối để pha canh... Tự xét lại, đức của thần còn kém xa các bậc tiên hiền, may trời ban cho được đến tuổi trí sĩ, thế mà không biết noi theo việc làm của tiên hiền, treo mũ cáo lão, thì e có cản trở đến đường lối đi tới của người hiền và không khỏi bị tiếng chê là luyến tiếc quyền vị”.
Triều đình đánh giá cao tài năng của ông, muốn giữ ông lại làm quan, ông phải ba lần làm khải dâng chúa mới được chấp nhận. Ngày về hưu, ông được vua Lê tự tay ban cho bốn chữ “Thái sơn Bắc đẩu”, hàm Thái phó Quốc lão.
Về hưu nhưng thường cứ ngày mồng Một và Rằm, Nguyễn Quý Đức đều đến Quốc Tử Giám giảng tập cho học trò. Ông lại ra đồng bàn luận công việc với dân làng, lấy 10 mẫu đất được triều đình ban cho đem tặng dân làng, trong đó dùng 4 mẫu để mở chợ Thánh Nguyên, tức chợ Mỗ ngày nay.
Bên trong nhà thờ Tam Đại vương bố - con, ông - cháu Tể tướng Nguyễn Quý Đức tại làng Đại Mỗ (Hà Nội). |
Hổ phụ sinh hổ tử, người con trai cả của Nguyễn Quý Đức là Hoàng giáp Nguyễn Quý Ân - người học giỏi nổi tiếng đương thời. Năm 21 tuổi Quý Ân đỗ Hương cống, 25 tuổi đỗ khoa Sĩ vọng và được tuyển vào làm Thị nội văn chức, 30 tuổi làm nội giảng ở Quốc Tử Giám.
Năm 1715, Quý Ân đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp), vào Hàn lâm viện lĩnh chức Bồi tụng, được giao viết 4 văn bia ở Quốc Tử Giám trong tổng số 21 bia mới được xây dựng.
Bút pháp của Quý Ân được xếp vào hàng đầu, qua các kỳ khảo sát quan lại trong triều đình đều đạt loại nhất, nên chúa Trịnh Cương giao nhiệm vụ Quốc sư dạy con trai là Trịnh Giang.
Trong thời gian ở nhà cư tang cha, Quý Ân bị bệnh rồi qua đời ở tuổi 50. Triều đình ra sắc chỉ định rõ: “Người giữ trọng trách Quốc sư, vua chúa đang được trông cậy, giúp rập rất nhiều thì nay không còn nữa, thật xiết bao đau xót”, truy tặng Thượng đẳng phúc thần, phong Đại vương.
Người cháu đích tôn của Nguyễn Quý Đức là Nguyễn Quý Kính (con trưởng của Nguyễn Quý Ân) đỗ Hương cống năm 22 tuổi, được tuyển vào thị nội văn chức, rồi thăng Lễ bộ lang trung thời vua Lê Dụ Tông, đến 40 tuổi làm Thái học tự khanh, dạy em chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh, rồi giữ chức Bồi tụng.
Sử liệu chép rằng, chúa Trịnh Giang chơi bời quá độ, sinh bệnh ốm đau cần nơi vắng vẻ để điều dưỡng. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ làm nhiều điều ngang trái, hãm hại đại thần, hình phạt dữ dội, khiến dân loạn lạc.
Nhiều người tập hợp lại chống nhà chúa. Trịnh Doanh không dám quyết vì danh chưa chính, ngôn chưa thuận. Nguyễn Quý Kính thực hiện nguyện vọng của bà Vũ thứ phi khuyên Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang trừ hết bọn gian thần cho yên cuộc loạn.
Nhà thờ Tam Đại vương Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Quý Ân, Nguyễn Quý Kính. |
Quý Kính vận động đại thần phò Trịnh Doanh lên ngôi chúa, sai em ruột là Vệ úy Nguyễn Quý Thường đưa hương binh bảo vệ kinh đô. Quý Kính chia binh giữ các cung điện và các cửa ngõ trong thành. Bọn hoạn quan ở cung Thưởng Trì được tin, tập hợp lực lượng đánh Quý Cảnh và tôn Trịnh Giang làm chúa như cũ nhưng bị hương binh của Quý Cảnh đánh bại, giết sạch.
Về sau Nguyễn Quý Kính làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, làm Tham tụng (Tể tướng). Ông có công lớn được người đời nhớ mãi, do đã cùng Vũ Công Tể đi tới nhiều nơi khuyên dân làm ruộng, trồng dâu, chiêu dụ những dân phiêu tán đi khai khẩn ruộng hoang, tạo được sự no đủ, bình an cho muôn dân.
Năm 65 tuổi, Nguyễn Quý Kính theo gương ông nội xin về hưu, sau nhiều lần mới được chấp nhận. Nhưng chỉ một năm sau triều đình lại mời về xếp vào bậc Ngũ lão. Khi Quý Kính qua đời, vua Lê chúa Trịnh đến khóc thảm thiết, phong Đại vương, Thượng đẳng Phúc thần, sắc cho các làng trong Tổng Mỗ thờ làm Thành hoàng.
Dòng họ Nguyễn Quý ở Đại Mỗ với hai ông cháu là Tể tướng, ba đời được phong Đại vương, vinh hiển nhất bậc. Bởi vậy, nhà bác học Lê Quý Đôn đã khái quát cô đọng trong bức trướng mừng Nguyễn Quý Kính: “Ba đời làm giảng quan, hai đời làm phụ tướng như tướng công (Nguyễn Quý Kính) kể từ Tiên công Quốc lão đến tướng công nền giáo dục về Thi - Thư - Lễ - Nhạc - Hiếu - Đễ - Trung - Tín một mạch truyền xa”.