Quả thật, nhận định về văn hóa Việt Nam của Mark Rapoport vô cùng chính xác. Điều đó cũng đặt ra nhiều câu hỏi về việc nhận thức giá trị văn hóa, và vai trò của mỗi người trong việc lan tỏa quảng bá văn hóa Việt Nam.
Trong giới sưu tầm hiện vật văn hóa Việt Nam, chúng ta có nhiều nhà sưu tầm lớn. Nhưng hầu hết trong số họ - rất ít, hoặc không bao giờ quảng bá hình ảnh văn hóa Việt ra với bạn bè quốc tế. Một phần vì hạn chế trong giao tiếp và các mối quan hệ, nhưng lý do lớn hơn là họ không được “tiếp sức” từ cơ quan quản lý văn hóa.
Rất nhiều bộ sưu tập hiện vật văn hóa đang xếp kho, hoặc “ngủ yên” trong bảo tàng. Chưa có những kênh truyền thông, hay cầu nối văn hóa để quảng bá các hiện vật ấy ra thế giới. Đến chính nhà sưu tập nước ngoài như Mark Rapoport, cũng phải tiếc nuối vì vị thế văn hóa Việt Nam chưa xứng đáng với những gì vốn có.
“Trong chán ngoài thèm” là một câu châm ngôn để giải thích vấn đề này. Chúng ta có thể coi văn hóa của đất nước mình là bình thường, nhưng trong mắt người nước ngoài – nét văn hóa ấy cực độc đáo, xứng đáng là bản sắc.
Chính ông Mark Rapoport đã đánh thức văn hóa Việt khi cho biết, những bảo tàng lớn nhất ở New York, chỉ có số ít hiện vật được trưng bày đến từ Việt Nam.
Trong khi nhà sưu tầm nội địa bo bo giữ hiện vật trong kho, các nhà nghiên cứu chưa tìm ra giải pháp quảng bá, thì Mark Rapoport đã và sẽ làm hai việc: Trao tặng hiện vật cho bảo tàng Việt Nam và các bảo tàng ở Mỹ.
Dù là tín hiệu vui, nhưng nếu lòng tự trọng đủ lớn – chúng ta thấy có lỗi nhiều hơn với nền văn hóa dân tộc, khi để người nước ngoài phải nuối tiếc thay!