Theo Sở GD&ĐT tỉnh Sóc Trăng, thực hiện các chế độ chính sách theo Nghị định 105 luôn được lãnh đạo địa phương quan tâm, quán triệt thực hiện, không để sót đối tượng. Hàng năm, Sở GD&DĐT đều rà soát, tổng hợp kết quả thực hiện, cũng như kịp thời giải quyết những trường hợp vướng mắc trong phạm vi ngành. Phối hợp với Sở Tài chính và tham mưu với UBND tỉnh ban hành nhiều công văn hướng dẫn cụ thể và lập các phương án chi trả đảm bảo thời gian.
Về chính sách hỗ trợ ăn trưa đối với trẻ em mẫu giáo, tỉnh đã chi trả cho 12.472 trẻ mẫu giáo (5 tháng) với số tiền trên 9,2 tỷ đồng; chính sách trợ cấp đối với trẻ em mầm non là con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp, qua rà soát có 109 trẻ đủ điều kiện thụ hưởng…
Ngành Giáo dục TP Cần Thơ triển khai có hiệu quả Nghị định 10, đặc biệt là chính sách đối với các cơ sở giáo dục mầm non; chính sách đối với trẻ em mầm non; chính sách đối với giáo viên, nhân viên. Theo ông Nguyễn Phúc Tăng, Phó Giám đốc Sở GD&ĐT, HĐND, UBND TP luôn quan tâm chỉ đạo sát sao việc triển khai thực hiện Nghị định 105, các sở, ban ngành, đoàn thể địa phương có liên quan phối hợp chặt chẽ, nên mạng lưới trường lớp mầm non được quan tâm quy hoạch, xây dựng phù hợp nhằm tạo thuận lợi cho trẻ đến trường.
Về chính sách trợ cấp đối với trẻ em mầm non là con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp, năm học 2020 - 2021, TP Cần Thơ có 516 trẻ em thuộc đối tượng quy định, tập trung ở các quận Ninh Kiều, Bình Thủy và Ô Môn.
Năm học 2020 - 2021, học kỳ I thành phố có 185 trẻ mẫu giáo được hỗ trợ ăn trưa 4 tháng với tổng kinh phí hơn 110 triệu đồng. Học kỳ II có 145 trẻ mẫu giáo được hỗ trợ ăn trưa từ 3 đến 4 tháng với tổng kinh phí hơn 86 triệu đồng; mức hỗ trợ 160.000 đồng/tháng/trẻ theo Nghị định 105. Năm học 2021 - 2022, toàn thành phố có 317 trẻ mẫu giáo thuộc đối tượng chính sách được hỗ trợ ăn trưa từ 5 đến 6 tháng (tùy địa phương) với tổng kinh phí hơn 272 triệu đồng; mức hỗ trợ 160 nghìn đồng/tháng/trẻ theo Nghị định 105.
Quá trình triển khai Nghị định số 105, một số địa phương còn gặp nhiều khó khăn như quá trình tham mưu, ban hành văn bản quy định mức hỗ trợ cụ thể theo thẩm quyền còn chậm.
Công tác quy hoạch và phát triển mạng lưới trường, lớp mầm non chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu đưa trẻ đến trường của nhân dân.
Các khu công nghiệp, khu đô thị đông dân cư vẫn còn tình trạng thiếu trường, lớp. Ngoài ra, đầu tư cho giáo dục mầm non tại một số địa phương còn chưa đáp ứng yêu cầu, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách hạn hẹp của Nhà nước và mới chỉ tập trung cho các cơ sở giáo dục mầm non công lập.
Đặc biệt, thu nhập của giáo viên mầm non, nhất là của giáo viên mầm non ngoài biên chế, nhân viên nuôi dưỡng hiện nay còn thấp so với mặt bằng chung của xã hội, chưa tương xứng với cường độ lao động và tính chất công việc.