Tháng 6 âm lịch năm 1786, quân Tây Sơn vào Thăng Long, quân Trịnh vỡ trận. Chúa Trịnh là Đoan Nam vương Trịnh Khải liệu không cầm cự nổi, đã phải rời bỏ kinh thành, đi theo chỉ còn vài cận thần cùng hơn ngàn quân dắt díu nhau đến địa phận huyện Yên Lãng.
Đến nơi, chúa hỏi cận thần rằng ở địa phương này có ai giỏi, vào hàng tiến sĩ không? Có người biết chuyện chỉ chỗ ở của tiến sĩ Lý Trần Quán tại làng Hạ Lôi, giữ chức Tri Lại phiên tại phủ chúa và đang đi chiêu phủ tại địa phương.
Khi Quán đến yết kiến, chúa Trịnh Khải nhờ tìm người bảo vệ và đưa đến địa giới huyện Yên Lãng. Quán tiến cử người học trò cũ tên Nguyễn Khang. Sợ để lộ tung tích chúa Trịnh, Quán nói nhờ Khang đưa đường dùm cho quan Tham tụng Bùi Huy Bích. Song Khang biết rõ chuyện thực và báo cho quân Tây Sơn tới bắt Trịnh Khải.
Lý Trần Quán được tin chúa bị bắt, vội vàng chạy đến nơi Trịnh Khải đang bị giam giữ, vừa lạy vừa khóc, nói: “Làm lầm lỗi chúa đến thế này là tội ở tôi”. Lý Trần Quán thử đem nghĩa lớn dụ bảo Trang để Trang tha cho chúa, nhưng Trang đã nói một câu nổi tiếng rằng: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu mình”.
Sau đó Nguyễn Trang bèn giải Trịnh Khải đi. Đến một quán nước ven đường, Trịnh Khải cướp con dao của nhà hàng đâm vào cổ tự tử, hôm đó là ngày 27 tháng 6. Nguyễn Trang đành đem thi thể Trịnh Khải nộp cho quân Tây Sơn. Thấy cái chết cứng cỏi của Trịnh Khải. Nhờ công này, Nguyễn Trang được Nguyễn Huệ bổ làm trấn thủ Sơn Tây, phong là Tráng liệt hầu.
Không cứu được chủ, Lý Trần Quán về nhà bảo với học trò rằng: “Ta là bầy tôi mà làm lầm lỡ chúa, tội ta đáng chết. Nếu không chết thì không giãi tỏ lòng này với trời đất được”. Ông sai người đào huyệt, đặt sẵn áo quan, Lý Trần Quán mặc đủ mũ áo, tự nằm vào áo quan rồi sai người đem chôn sống vào ngày 29 tháng 6 âm lịch năm 1786 - hai ngày sau khi Trịnh Khải chết.
Lý Trần Quán được truy phong Công bộ Thượng thư, tước Dực Quận công, Lý Trần Quán còn được phong làm phúc thần. Đời sau có đôi câu đối về hành trạng của ông rằng: “Khảng khái cần vương dị/ Thung dung tựu nghĩa nan” (nghĩa là: Khảng khái làm việc cần vương thì dễ, ung dung làm trọn đại nghĩa thì khó).
Vì không cứu được chúa, Lý Trần Quán đã tự nằm trong quan tài và sai người khác chôn sống. Ảnh minh họa: INT. |
Người con thứ của Đặng Trần Diễm là Lý Trần Dự cũng là một nhân vật nổi tiếng. Tuy nhiên, năm sinh năm mất của ông vẫn còn nhiều nghi vấn. Trong văn bia đề danh có ghi ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Cảnh Hưng 30 (1769). Ông làm quan đến chức Đô chức sự trung, sau thăng lên làm Đốc đồng Lạng Sơn. Khi mất, ông được phong chức Đãi chế viện hàn lâm, Lâm tá lang.
Người con út của Đặng Trần Diễm là Lý Trần Thản, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Cảnh Hưng 30 (1769) đồng khoa với anh trai Lý Trần Dự rồi làm tri huyện Phú Xuyên, ông cũng là con rể của nhà bác học Lê Quý Đôn.
Lý Trần Thản trải qua nhiều chức quan, như: Hữu tư giảng để cùng Nguyễn Lệ (giữ chức tả tư giảng) dạy con trai chúa là Trịnh Khải; Biên tu; Đốc lĩnh các đạo Hưng - Tuyên, làm nhiệm vụ tiễu phỉ. Sau ông làm tới Thượng thư bộ Binh; tham dự việc trông coi biên soạn sách ở Viện Hàn lâm.
Ông được ban 5 sắc phong, được tặng tước bá, phong Đông các đại học sĩ, Kim tử vinh lộc đại phu, truy tặng Trung lương đại vương, Trung đẳng phúc thần, tước Tuy quận công. Ông còn được phong tặng hai mỹ tự: “Đoan nhã, chính trực”. Ông là một trong những người được phong tặng nhiều chức, tước, phẩm, hàm nhất dưới thời phong kiến.
Về Lý Trần Thản - con thứ ba của cụ Đặng Trần Diễm, từ xưa đã có những thông tin khó xác định. Rằng, ông vốn chỉ là con của một bà thứ thất của Đặng Trần Diễm. Gia phả chi họ Lý Trần ở Lê Xá, Duy Tiên, Hà Nam ghi rõ việc Đặng Trần Diễm khi mới ở tuổi 16, 17 đã từ Vân Canh xuống tận đây dạy chữ trong một gia đình họ Trần để lấy lương ăn mà tiếp tục học cao lên.
Tại đây cậu giáo đã sớm gá duyên cùng người con gái của gia đình này, nhưng không phải là chính thất. Tuy nhiên một người con trai đã ra đời vào năm 1721 khi kể cả tuổi mụ Đặng Trần Diễm mới là 17. Người con trai này được gọi là Lý Trần Thản, vừa là hậu duệ chi họ Đặng Trần làng Vân Canh (Hà Nội), vừa là tổ phụ chi họ Lý Trần ở Lê Xá (Hà Nam).
Ông ra đời trước hai người anh của mình nhiều năm, nhưng không chính thất nên phải làm em. Nhà sử học Lê Văn Lan cho rằng, cụ Lý Trần Thản cho dù gốc gác còn nhiều điều mờ tỏ, thậm trí chưa rõ ràng và đặc biệt có nhiều nỗi éo le, nhưng cuối cùng thì hạnh phúc lớn của đời người là biết được nguồn cội, dò tìm được chỗ nông sâu của dòng tộc.
Đặng Trần Diễm là một nhân vật đặc biệt - một cử nhân nhưng lại được phong đến Đông các đại học sĩ và là người hiếm hoi trong lịch sử khoa bảng Việt Nam được đặc cách. Chính tài năng và đức độ của ông đã quyết định việc được đặc cách đó. Hơn nữa, đây cũng là trường hợp điển hình của việc trọng dụng nhân tài, thể hiện truyền thống hiếu học của gia đình Việt Nam - PGS.TS Hà Minh Hồng (Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TPHCM).