Ong qua, bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy chầy gió táp, mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn
Thế nhưng Kiều vẫn có thể ngẩng cao đầu nói cùng Kim Trọng bằng cả lòng tự trọng: Chữ trinh còn một chút này và chàng Kim cũng một mực khẳng định: Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Đó không chỉ bởi cái nhìn bao dung của chàng Kim (Thân tàn gạn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta) mà quan trọng hơn, là do Kiều vẫn giữ được chữ trinh thứ hai, là những phẩm chất tốt đẹp trong con người nàng “trải bao gió dập sóng dồi” vẫn chưa hề đánh mất.
Có thể nói, trong quan niệm về giá trị của người phụ nữ, nhất là về chữ trinh, Nguyễn Du không chỉ có cái nhìn yêu thương, cảm thông, trân trọng, bao dung, mà vượt lên trên, đó còn là cái nhìn hết sức tiến bộ, nhân văn. Điều này sẽ được phát triển cao hơn trong thơ chữ Hán, tiêu biểu là bài Vọng phu thạch.
Theo như gia phả họ Nguyễn Tiên Điền: “Mùa đông năm Quý Hợi (1803), sứ Thanh sang phong sắc cho vua (tức Gia Long), ông (tức Nguyễn Du) được cử cùng với Tri phủ Thượng Hồng là Trần Quý Chuyên, Tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên và Tri phủ Tiên Hưng là Trần Lưu đi lên Trấn Nam Quan nghênh tiếp. Khi sứ thần về nước, những bài thơ tống tiễn đều tự tay ông thảo ra”. Vọng phu thạch được viết trong dịp đi nghênh sứ đó.
Tác phẩm này viết về hòn vọng phu, một đề tài quen thuộc trong văn học dân gian, văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ theo thể thất ngôn bát cú ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một quan niệm mới mẻ, đi trước thời đại của tác giả mà cho đến ngày nay, con người hiện đại vẫn còn phải ngỡ ngàng:
Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp yểu vô vân vũ mộng
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ
Đài triện trường minh nhất đoạn văn
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế
Độc giao nhi nữ thiện di luân?
Dịch nghĩa:
Đá chăng, người chăng, ai vậy nhỉ
Đứng một mình nơi đầu núi cả trăm nghìn năm
Muôn kiếp đành chịu không biết mộng mây mưa
Để thân mãi mãi giữ được một chữ trinh
Mưa ba thu như nước mắt chảy hoài không ngớt
Lớp rêu như ghi lại đoạn văn để nhớ mãi [về nàng]
Nhìn ra bốn bề núi non trùng điệp không thấy gì nữa
Sao để riêng phận con gái như nàng phải giữ mãi đạo luân thường
Hòn Vọng Phu (nằm trong quần thể động Tam Thanh) gắn với câu chuyện nàng Tô Thị ôm con chờ chồng hóa đá là địa danh nổi tiếng của Lạng Sơn, từ lâu đã đi vào ca dao và trở nên quen thuộc với nhiều người Việt: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/ Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Đó là địa danh cụ thể mà Nguyễn Du đã gặp trên đường đi nghênh sứ, từ đó cảm hứng mà viết về những hòn vọng phu không phải tên riêng có mặt trên đời, những hòn đá đợi chồng gây xúc động đặc biệt đối với một nhà thơ dễ động lòng trắc ẩn trước nỗi đau của người phụ nữ.
Trong tâm thức thẩm mĩ - đạo đức truyền thống, hình ảnh đá vọng phu là biểu tượng của người phụ nữ tiết hạnh, thủy chung, là tượng đài sừng sững cho những liệt nữ trung trinh suốt đời thủ tiết thờ chồng mà người đời ca ngợi. Một hòn vọng phu xuất hiện phổ biến trong văn học dân gian, trong thơ truyện của nhiều trí thức phong kiến bởi bản thân hình tượng mang tính ca ngợi, giáo huấn cao. Viết về đề tài liệt nữ để răn dạy kẻ làm nữ nhi và ca ngợi đức hạnh của người phụ nữ lí tưởng, nhiều tác giả đã chọn hình tượng hòn vọng phu là vì lí do trên.
Chẳng hạn, Cao Bá Quát trong bài thơ cùng tên (Vọng phu thạch) ngợi ca tấm chân tình chung thủy dù mọi thứ đổi thay của người vợ bồng con đợi chồng hóa đá: Thiên hoang địa lão tình do tạc (Trời hoang đất già, tình vẫn còn như hôm qua). Hay Nguyễn Đề trong bài Vịnh Tô thị vọng phu sơn: Nghĩa liệt trường lưu bất hủ danh/ Nham nham kính cốt kí cô trinh (Gương liệt nghĩa còn lưu giữ mãi, danh tiếng bất hủ/ Đá cứng cỏi là nơi gởi gắm dạ kiên trinh). Biểu tượng hòn vọng phu vì thế trở thành phương tiện để các tác giả biểu dương những tấm gương kiên trinh liệt nữ, để rao giảng đạo đức phong kiến làm gương cho kẻ hồng quần.
Nguyễn Du không đồng ý với quan điểm này. Ngay trong câu mở đầu ông đã bộc lộ thái độ bất đồng tình qua ba câu hỏi tu từ liên tiếp khi chứng kiến hòn đá đứng trơ trụi muôn đời. Là đá hay là người mà cứ dựng đó cả ngàn năm để rồi vạn kiếp không còn biết đến hạnh phúc gối chăn (điển vân vũ chỉ cho chuyện quan hệ nam nữ).
Đời người ngắn ngủi, tại sao cứ phải chờ đợi một điều không bao giờ trở lại để cho tuổi xuân héo tàn. Tan vỡ một cuộc tình ngang trái, người chồng - người anh vì mặc cảm tội lỗi mà đã bỏ đi biệt xứ chẳng thể trở về, thì hà cớ gì người vợ trẻ phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân chờ đợi một điều viễn vọng. Người vợ trẻ ấy có quyền được tái giá, sống hạnh phúc giản đơn như bao người phụ nữ bình thường, vì cớ gì phải chấp nhận chôn vùi tuổi xuân, kìm nén hạnh phúc bản năng chính đáng để rồi chịu kết cục hóa đá trơ trọi dãi dầu, ngàn năm vẫn còn đau đáu chờ đợi…
Nguyễn Du liên tiếp đặt ra những câu hỏi khiến người đọc không thể ngồi yên mà phải cùng ông đi tìm lời giải đáp. Bằng trái tim giàu lòng trắc ẩn và cái nhìn vượt lên trên định kiến của cuộc đời, Tố Như đã cho ta câu trả lời cay đắng. Hóa ra vì một chữ trinh để lưu kim cổ (nhất trinh lưu đắc cổ kim thân), một cái tiếng “tiết hạnh khả phong” mà người phụ nữ chấp nhận, thậm chí bị buộc phải đánh đổi tuổi xuân, sức sống và hạnh phúc xác thịt. Hóa ra, vì tôn thờ một cái danh mơ hồ mà đạo đức phong kiến tạo ra nhằm ràng buộc người phụ nữ, người vợ trẻ có thể cam chịu hi sinh những ham muốn đời thường, thậm chí còn lấy làm mãn nguyện, tự hào vì nó.
Thế nhưng đâu ai biết rằng, đằng sau tiếng được khen của người đời là bao nhiêu bi kịch mà người phụ nữ xưa phải âm thầm chịu đựng. Đài rêu xanh như đoạn văn ca ngợi tiết hạnh kiên trinh kia (Đài triện trường minh nhất đoạn văn) có che đậy được những giọt nước mắt chảy hoài không ngớt như mưa mùa Thu (Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ)? Riêng mình ôm giữ đạo luân thường cứng nhắc kia (Độc giao nhi nữ thiện di luân) làm gì để phải chịu cảnh một mình trơ trọi giữa bốn bề núi non (Tứ vọng liên sơn diểu vô tế) với những gì còn lại chỉ là một tảng đá rêu phủ không hơn không kém.
Thì ra, chính những gì mà người vợ tự hào lại là nguyên nhân của những nỗi đau họ phải gặm nhấm từng ngày. Cội nguồn của mọi bi kịch ấy chính là ở một chữ trinh cứng nhắc, nghiệt ngã. Trong bài thơ này, Nguyễn Du lại nêu ra một quan niệm mới về chữ trinh. Đó là có chữ trinh bởi đạo đức và dư luận người đời mà trở thành vòng kim cô trói chặt người phụ nữ trong đau khổ. Nhưng xót xa thay, người phụ nữ xưa không có dũng khí và cũng không đủ điều kiện để vượt ra ngoài dư luận, tự mình tháo bỏ chiếc vòng oan nghiệt kia, cho nên trọn một đời chỉ biết câm lặng chịu đựng nỗi đau. Đó là chữ - trinh - bi - kịch - phải - gìn - giữ mà những người vợ trẻ góa chồng ngày trước không dám bước qua.
Người phụ nữ trong xã hội “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” thường không được mãn nguyện trong hạnh phúc gối chăn, thậm chí nói như Hồ Xuân Hương, “một tháng đôi lần có cũng không” (Cảnh chồng chung). Họ cũng có những nhu cầu hạnh phúc sơ đẳng của người làm vợ nhưng nhiều trường hợp không thực hiện được vì cái bóng của đạo lí dư luận quá lớn họ không thể vượt qua. Bi kịch của họ cũng xuất phát từ đó. Nguyễn Du hiểu điều này. Ông lên tiếng đấu tranh cho người phụ nữ xưa với một quan niệm về chữ trinh rất tiến bộ và sự nhìn nhận một cách công bằng về hạnh phúc trần thế của họ. Vọng Phu thạch xứng đáng được xem là bài thơ có thể làm giật mình người ta ở mọi thời.
Nguyễn Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại. “Tố Như có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời” (Mộng Liên Đường Chủ nhân). Viết về kiếp người trong cõi nhân sinh, ông dành sự thương cảm đặc biệt cho những thân phận phụ nữ khổ đau, bởi hơn ai hết, trong xã hội phong kiến với trùng điệp những quy định và bất trắc, những thân phận phụ nữ mong manh rất dễ bị tổn thương.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du xót xa kêu lên “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Trong Văn chiêu hồn, một lần nữa ông thở dài bất lực “Đau đớn thay phận đàn bà/ Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”. Cả hành trình thơ của mình, dường như Tố Như tập trung nhiều nhất vào việc đi tìm nguyên nhân của những nỗi đau mà con người ta, đặc biệt là người phụ nữ, trong thế cuộc trăm năm phải chịu đựng.
Trong các con đường đi lí giải những bất công mà cuộc đời mang đến cho người phụ nữ, có nhiều lần Nguyễn Du đã bất lực, bế tắc và rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Thế nhưng cái nhìn của ông nhìn chung vẫn rất hiện thực. Ông nhìn thấy được nguyên nhân sâu xa của những bất công ấy ít nhiều liên quan đến chữ trinh của người phụ nữ cùng với sự ràng buộc của các chuẩn mực đạo đức phong kiến và dư luận nghiệt ngã, khắt khe.
Từ Truyện Kiều đến Vọng phu thạch, Nguyễn Du trong các tác phẩm của ông đã nên lên nhiều quan điểm mới mẻ, tiến bộ và giàu tính nhân văn về chữ trinh nói riêng và phẩm hạnh của người phụ nữ nói chung. Đó là tư tưởng nhân đạo tốt đẹp trong thơ Nguyễn Du mà nhân loại muôn đời sẽ còn nhớ mãi về ông.
Trong xã hội phong kiến với muôn vàn những quy định khắt khe, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” (Truyện Kiều) được xem là thước đo giá trị cao nhất của người phụ nữ. Hiểu rộng ra, tiết hạnh với tấm thân tuyết sạch giá trong được xem là vấn đề sống còn của người phụ nữ xưa. “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh là câu trao mình” (Lục Vân Tiên), chữ trinh là nguyên tắc đạo đức, là điều kiện để đảm bảo hạnh phúc trong đời sống hôn nhân nhưng đồng thời, nó cũng là nguyên nhân của biết bao nỗi đau, bi kịch mà người phụ nữ phong kiến phải chịu đựng.