Không những triều đình có nhiều chính sách ưu ái kẻ sĩ để thể hiện chủ trương khuyến học. Cũng nhờ ân khoa mà năm 1851 có thêm một Bảng nhãn Vũ Duy Thanh, sau trở thành đôi bạn thân thiết của Phạm Thanh.
Năm 1859, Bảng nhãn ân khoa Vũ Duy Thanh qua đời. Cảm kích trước tấm lòng trung quân ái quốc, yêu nước thương dân cũng như sự đa tài của Vũ Duy Thanh, Phạm Thanh đã làm đôi câu đối điếu người cùng tên và cùng đỗ Bảng nhãn trong cùng năm với mình rằng: Nhân bảo đương vi thiên hạ tích/ Hoạn tình năng động cửu trùng thiên (Người quý công tích còn trong thiên hạ/ Quan ân rung động tới tận cửu trùng).
Dù được thần báo mộng thi trượt nhưng Phạm Thanh vẫn thi đỗ Bảng nhãn (ảnh phải). Ảnh minh họa: INT |
Theo tương truyền dòng họ Phạm ở Trương Xá, Phạm Thanh là người tài hoa, không tin vào chuyện quỷ thần, chỉ tin ở chính mình. Trước kỳ thi Hương, ông có việc ra Bắc qua đền Trấn Vũ. Đêm ngủ tại đền, ông mộng thấy thần báo mộng kỳ thi này ông không đỗ.
Sáng dậy, ông ghi lại bài thơ Nôm lên bức tường đền trước khi rời đi: “Tuổi trẻ nhà nòi chí tiến xa/ Kinh hiền truyện thánh đọc lầu qua/ Thần nhân sao biết việc người được/ Nhất quyết khoa này giật thủ khoa”. Quả nhiên, khoa thi ấy ông đỗ Giải nguyên.
Sau khi đỗ Bảng nhãn, Phạm Thanh được bổ nhiệm làm việc ở Nội các - cơ quan giữ việc biên soạn chiếu, sắc, cáo dụ cho vua. Về sau, ông làm đến chức Tham tri bộ Hộ.
7 năm sau khi thi đỗ và làm quan cũng là lúc thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng (năm 1858). Phạm Thanh đứng về phía chủ chiến, nhưng ra sức phản đối chủ trương “sát đạo” của vua Tự Đức.
Không chỉ ý kiến của Phạm Thanh, nhiều lời tâu khác của các đại thần cũng đều bị Tự Đức bỏ qua. Bởi vậy, trước tình cảnh đất nước rối ren, Phạm Thanh không khỏi chất chứa ưu phiền.
Trong “Di cảo Phạm Thanh” có viết rằng: “Người vốn yên mà muốn no ấm không phải dễ; há chịu mãi cảnh tối tăm sao? Quay đầu về mé trời tây thì mây hoang mờ mịt, gió buốt thảm thê; con tim khối óc, máu và nước mắt khắc họa rõ! Thanh không vì nhỏ bé, mờ nhạt, không vì thua người, mong có trời chứng giám”.
Bảng nhãn Phạm Thanh đột ngột qua đời với nhiều uẩn khúc vào năm 1863, khi mới 42 tuổi đời. Thi hài ông được chôn cất tại Huế, sau được đưa về quê nhà Trương Xá.
Bức biển bài có chữ 'Quốc triều á Trạng' được con cháu dòng họ Phạm lưu giữ. Ảnh: INT |
Bảng nhãn Phạm Thanh để lại cho đời các tác phẩm còn lại cho đến ngày nay, như: Phạm Nghị Trai thi tập, Đạm Trai thi khóa, Nghĩa phu, hiếu tử, thuận tôn, cập liệt nữ thực lục… Trong đó, bộ “Phạm Nghị Trai thi tập” (1 quyển) là tập thơ do ông sáng tác trong lúc làm quan. Hiện thư viện Viện Sử học lưu giữ mang ký hiệu Hv.31.
Sách không có tờ mặt, tờ thứ nhất đề niên hiệu và tên người sao chép: Thành Thái mạnh đông vọng hậu nhị nhật phụng biên (không rõ năm chính xác, chỉ biết sách được biên tập vào niên hiệu Thành Thái: 1889-1907).
Người sao chép ghi hiệu là Thiên Sà tử cũng không rõ là người nào. Sở dĩ biết được tên tác giả tập thơ này là Phạm Thanh là theo lời chua ở bài “Khóc quan Án sát Quảng Bình”.
Tập thơ Nghị Trai có hai phần: Phần thứ nhất gồm 22 bài thơ vịnh các nhân vật lịch sử của Trung Quốc, do sắc chỉ của vua Tự Đức, phỏng theo 22 bài của thi nhân Trung Quốc tên là Cao Thanh Khâu. Phần thứ hai gồm một số thơ tiễn tặng, đề vịnh.
Trong đó có bài thơ tiễn bạn về Thanh Hóa: “Hàm Rồng đẹp, sông Mã trong/ Bác đi thuận gió, cánh bồng nhẹ trôi/ Nhớ quê trong mộng phần tôi/ Đêm đêm theo bác về nơi Hạc Thành” (bản dịch của Hà Vũ).
Ngày nay, một số tác phẩm thơ văn của ông còn được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, Viện Sử học và tại quê nhà Trương Xá. Quê hương Trương Xá cũng là nơi Bảng nhãn Phạm Thanh ngàn năm an nghỉ trong lòng đất mẹ - với ngôi mộ đơn sơ tự thuở nào.
Sự ra đi đột ngột của Phạm Thanh khiến người đời thương tiếc. Người bạn đồng môn là Đỗ Xuân Cát viếng ông bằng đôi câu đối: “Khoa vi khôi, hoạn vi khanh, phương tứ thập chính cường, sĩ hãn đáo thử/ Thân hoàn danh, thế hoàn cục, túng bách tuế xưng lão, thần thiêm kỷ hà” (Khoa đỗ đầu, quan chức lớn, mới bốn mươi chính lúc khang cường, kẻ sĩ đến thế cũng là hiếm/ Danh đã tròn, đời cũng trọn, giá trăm tuổi lên hàng lão đại, bề tôi còn góp được bao công).