Trong lời bạt, Nguyễn Trù viết: “Sách này của Chúc Nghiêu tiên sinh là chính tông của môn sách học, lưu hành khắp nơi đã lâu năm. Hiềm vì sách thì có mà chú thích còn thiếu, tôi không tự lượng kiến thức hẹp hòi, kính đem những điều được biết chép ra để cho người mới học được tiện tra cứu”.
Các chú thích của Nguyễn Trù không tách ra phần riêng mà bám sát nguyên văn, gặp chữ khó, điển lạ thì chú giải bằng chữ nhỏ bên cạnh để giải thích. Những chú thích như vậy rất cần thiết để người đọc dễ lĩnh hội ý nghĩa và phương pháp của bài sách luận. Bàn về tác phẩm này, Phan Huy Chú đã đánh giá “chú thích rất kĩ lưỡng, xác đáng”.
Năm 1728, Nguyễn Trù cho hiệu đính và in lại tập sách “Quần hiền phú tập”, gồm 30 tác giả từ thế kỉ 14 - 18 như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn. Đây là tập phú cổ nhất của nước ta còn giữ được cho đến ngày nay.
Tập phú không những có giá trị cho việc dạy học, mà còn là một bộ sưu tập giữ lại được những tác phẩm phú chữ Hán trong thời kỳ thịnh đạt của thể loại, mà nhà bác học Lê Quý Đôn đã khen là “khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ”.
Danh sĩ thời Lê là Nguyễn Công Cơ cũng khen: “Bộ tuyển tập phú này nếu không có các bậc hiền xưa thì không có nghệ thuật thần diệu; nhưng các bậc hiền triết đó nếu không có ông Nguyễn (Nguyễn Trù) thì không để được văn phú cho đời sau”.
Ngoài ra, ông còn cho in sách “Truyền kỳ lục” - một tác phẩm thuộc thể loại hiếm quý của văn học Việt Nam. Nhận xét về Nguyễn Trù, sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” viết: “Trù là người học hỏi rộng rãi, thường sửa định, chú giải các sách học đề cương và Quần hiền phú... lưu hành ở đời”.
Cửa Ngưỡng Chỉ đình Trung Tự. |
Nguyễn Trù cũng là người dựng văn bia “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” (Bia mốc giới thôn Trung Tự, phường Đông Tác) được hậu thế xem như một “cuốn sổ đỏ” bằng đá có một không hai ở Việt Nam. Hiện tấm văn bia này vẫn được bảo lưu và gìn giữ tại đình Trung Tự.
Để hiểu ngọn nguồn tấm văn bia này, theo người dân Trung Tự thì phải lần giở lịch sử vào thế kỷ 16, đất Đông Tác bị một số quan lại đương thời chiếm đoạt. Đến đời thứ 7, Nguyễn Hy Quang khi còn đang đi học cũng đã bày mưu kế cho dân làng tranh kiện đòi lại đất đai với các chức dịch.
Tên Hoàng giáp Nguyễn Trù trên bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1697. |
Trải qua 3, 4 lần xét xử, đến năm 1674 sau khoảng 80 năm phải “ở nhờ”, người dân Đông Tác - Trung Tự đã được trở về phục nghiệp trên mảnh đất cũ của tổ tiên. Trong năm này, Nguyễn Hy Quang bỏ tiền cùng dân làng Trung Tự sửa sang làng xóm. Biết đó là nơi nền đất yếu, Trịnh Bính cho quân dẫn theo đàn voi đến khu đất mà dậm nền nhà cho vững để trả ơn thầy.
Vào ngày 2 tháng 6 năm Quý Sửu, niên hiệu Long Đức thứ 2 (1733), văn bia này được soạn, trở thành một văn bản chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất của dân làng sau khi dân làng Trung Tự thắng kiện và đòi lại được đất đai bị chiếm dụng trong suốt 80 năm.
Trong lời mở đầu văn bia, Nguyễn Trù viết: “Ngày phục nghiệp của thôn ta, có một đạo “Khải của quan Phụng Sai”, lại thêm một đạo “Phán quyết của quan Cai Khám”.
Đây là những vật báu muôn đời, được cất giữ trong hòm quý đến nay vừa tròn 60 năm. Nay ta muốn truyền lại lâu dài, bèn cùng người làng tìm đá, chọn người để chép lại và khắc sâu, khiến cho trăm đời có bằng chứng, vạn năm không hư hỏng”.
Sau lời mở đầu, văn bia được khắc gồm có hai văn bản. Một là bài Khải soạn ngày 10 tháng 6 năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức 2 (1673) của một viên quan phụng sai dâng lên chúa Trịnh trình bày ý kiến của viên quan này đề đạt lên chúa xin công nhận và trả lại cho dân thôn Trung Tự số ruộng đất đã bị chiếm đoạt.
Hai là một văn bản ra đời sau đó 4 năm, đề ngày 19/8, Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị 2 (1677), có tên là “Cai khám quan phó đoạn tích” (Quyết định của quan Cai Khám).
Nội dung là lời quan Cai Khám phán quyết về vụ kiện về tranh chấp đất đai giữa làng Trung Tự và làng láng giềng. Quan Khám phán quyết rằng: Sau khi thẩm tra và đối chiếu địa bạ, thấy làng láng giềng tố cao làng Trung Tự chiếm đất của mình là sai, vì các khu đất có từ lâu đã thuộc về làng Trung Tự. Làng láng giềng này phải nộp phạt 30 quan tiền về tội mạo chiếm.
Theo dân làng Trung Tự, “Đông Tác phường Trung Tự thôn địa giới kiệt” là một loại bia hộp vì có hình thù như một chiếc hộp, gồm hai phiến đá úp vào nhau. Cả hai phiến đều hình vuông kiểu triện vuông 76cm, tấm dưới dày 50cm, tấm trên 18cm. Hồ sơ xếp hạng di tích đình Trung Tự đánh giá: “Khối bia hộp duy nhất tìm thấy ở nội thành, một loại hình di vật độc đáo đặc biệt quý hiếm trong Di sản văn hóa nước nhà” (Quyết định 776/QĐ của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ngày 23/6/1992).