Tình hình tương tự cũng diễn ra tại UAE. Hồi năm ngoái, xuất khẩu dầu Nga sang UAE đã tăng gấp hơn 3 lần, đạt kỷ lục 60 triệu thùng - theo dữ liệu từ công ty Kpler. Dầu Nga hiện chiếm khoảng 1/10 số thùng dầu được trữ ở Fujairah, cơ sở trữ dầu lớn nhất của UAE. Theo Wall Street Journal, UAE hiện đã trở thành một điểm tích trữ và tái xuất khẩu lớn của các sản phẩm dầu Nga. Nhiều nhà giao dịch đã kiếm đậm nhờ việc bán dầu Nga từ UAE sang những nước như Pakistan, Sri Lanka, và các nước Đông Phi. Hầu hết các giao dịch này đều dựa vào hệ thống tài chính của UAE.
Bên cạnh đó, hoạt động thương mại ngày càng bùng nổ này cũng cho thấy rằng, cỗ máy xuất khẩu của Nga có đủ tàu để phục vụ các khách hàng mới. Các sản phẩm "sạch" như dầu diesel không thể được vận chuyển trên các tàu chở dầu thông thường, nơi dầu thô hoặc các sản phẩm nặng hơn có thể làm bẩn chúng. Đội tàu chở dầu diesel có quy mô nhỏ bé trên toàn cầu đã hoạt động với tần suất dày hơn, khi các thùng dầu của Nga bắt đầu thực hiện những chuyến đi dài hơn.
Các biện pháp trừng phạt hồi tháng Hai từ châu Âu đã đe dọa khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn. EU cấm các chủ hàng, thương nhân và công ty bảo hiểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán hàng của Nga, trừ khi dầu được bán dưới mức giá do Nhóm Các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) thiết lập là 100 USD một thùng cho các sản phẩm cao cấp.
Những vấn đề đau đầu về tuân thủ quy định, cộng với rủi ro có thể xảy ra khi giao dịch với Nga, đã khiến nhiều công ty phương Tây phải đứng ngoài cuộc, bao gồm cả những tên tuổi lớn như BP hay Shell.
Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều lựa chọn như vậy. Tờ khai hải quan của các nhà xuất khẩu là một trong những công cụ cuối cùng còn lại để phân tích dòng chảy thương mại của Nga sau khi Mátxcơva ngừng công bố số liệu thống kê hải quan tổng hợp vào năm ngoái. Dữ liệu cho thấy, 50 công ty đã xuất khẩu tổng trị giá 16 tỷ USD dầu mỏ tinh chế từ Nga trong 4 tháng đầu năm nay.
Trong số đó, đáng chú ý là một số công ty lớn tại chính các nước phương Tây. Các báo cáo trích dẫn dữ liệu hải quan cho thấy, Gunvor và Vitol, hai công ty thương mại hàng hóa hàng đầu ở Thụy Sỹ, vẫn nằm trong nhóm mười bên mua các sản phẩm dầu mỏ hàng đầu của Nga trong 4 tháng đầu năm.
Dữ liệu phân tích từ Financial Times cho thấy, công ty Gunvor có trụ sở tại Thụy Sỹ là bên mua lớn thứ 8 tính theo giá trị, đã vận chuyển 1 triệu tấn sản phẩm dầu mỏ trị giá khoảng 540 triệu USD. Còn Vitol là bên mua lớn thứ 10, đã vận chuyển khoảng 600 nghìn tấn trị giá khoảng 400 triệu USD. Cả hai công ty đều cho biết họ vẫn tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có liên quan.
Phần còn lại được thực hiện bởi các công ty năng lượng Nga và các đối tác của họ ở Hong Kong (Trung Quốc), Singapore hoặc UAE. Họ dường như không thiếu tàu, xà lan để chở dầu. Ví dụ như tàu Thuyền trưởng Paris từng được thuê bởi Bellatrix, một doanh nghiệp ít người biết đến. Doanh nghiệp này sở hữu tới 36 chiếc tàu, chủ yếu để chở sản phẩm dầu mỏ từ Nga.
Trong khi đó, nhiều kỹ thuật sáng tạo cũng đã được sử dụng. Hoạt động vận chuyển từ tàu này sang tàu khác liên quan đến hàng hóa của Nga, đặc biệt là gần Hy Lạp và Malta, đã tăng vọt kể từ năm ngoái, cho thấy những nỗ lực né các biện pháp hạn chế. EU đã thừa nhận điều này vào ngày 21/6, khi cho biết, sẽ cấm các tàu chở dầu bị nghi ngờ chuyển hàng lậu cập cảng của mình.
Một số tàu cũng sử dụng thiết bị chuyên dụng trong quân sự để gửi đi những tín hiệu vị trí giả. Cách thức này giúp các nhà nhập khẩu vốn lo ngại các rắc rối pháp lý, có thể thoải mái mua nhiên liệu của Nga thông qua các tuyến đường gián tiếp. Kể từ tháng 2, Nga đã gửi khối lượng kỷ lục naphtha – một sản phẩm sạch dùng để sản xuất nhựa tới Malaysia và Singapore, từ đó vận chuyển đến các khách hàng trên khắp châu Á dưới danh nghĩa các sản phẩm địa phương.
Trong những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu của Nga chiếm khoảng 15% thương mại dầu diesel toàn cầu. Khả năng phục hồi xuất khẩu của nước này khi đối mặt với các biện pháp trừng phạt có thể sẽ dẫn đến tình trạng dư cung trong thời gian còn lại của năm nay.
Trước đó, trong năm 2022, giá cả đã tăng vọt khi nguy cơ gián đoạn nguồn cung xảy ra đồng thời với nhu cầu phục hồi sau đại dịch. Tuy nhiên, những cú sốc về nguồn cung hiện đang tiêu tan, khi mà các quốc gia vùng Vịnh đang bổ sung công suất lọc dầu, còn tăng trưởng kinh tế chậm lại đang làm giảm nhu cầu tiêu thụ của các nước phương Tây. Chi phí của một xà lan dầu diesel được giao tại Rotterdam (Hà Lan) đã giảm 25% trong vòng một năm qua. Lợi nhuận từ các sản phẩm tinh chế cũng chỉ bằng một phần ba so với trước đây.
Nguồn cung sản phẩm giá rẻ từ Nga sẽ đẩy các nhà máy lọc dầu tại châu Âu vào tình cảnh khó khăn, phải cắt giảm công suất (Nguồn: Reuters)
Điều này sẽ gây tổn hại cho các nhà máy lọc dầu ở cả châu Âu và châu Á, vốn đang bị đẩy ra khỏi thị trường bởi các sản phẩm giá rẻ từ Nga. Điều này sẽ khiến các nhà máy bị buộc phải cắt giảm hoạt động, hoặc thậm chí giảm hẳn công suất. Trong khi đó, những bên trung gian biết cách lách luật, vẫn đang kiếm được những món tiền khổng lồ một cách dễ dàng, nhờ vào chính các biện pháp trừng phạt từ phương Tây.
Nguồn: The Economist, Financial Times, Wall Street Journal, Bloomberg