Ngoài ra, phát triển các bến khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch, cũng như các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim và các bến phục vụ khu kinh tế ven biển.
Giai đoạn này cũng kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các cảng biển tiềm năng như Vân Phong và Trần Đề. Đến giai đoạn năm 2030, sẽ đầu tư bến khởi động khu bến Nam Đồ Sơn (Hải Phòng), các bến cảng tại khu vực Cái Mép hạ và hạ lưu Cái Mép hạ và khu bến Trần Đề (Sóc Trăng).
Tính đến tháng 10/2022, cả nước có 296 bến cảng, chiều dài khoảng 107 km cầu cảng (gấp 5 lần năm 2000). Đồng thời, đã hình thành các cảng cửa ngõ quốc tế tại khu vực phía bắc và phía nam, cũng như tiếp nhận thành công tàu container đến 145.000 tấn tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến 214.000 tấn tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Các bến cảng chuyên dùng cũng được phát triển và tiếp nhận được nhiều tàu trọng tải lớn. Các bến chuyên dùng quy mô lớn gắn với các khu công nghiệp, liên hợp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện than tiếp nhận tàu đến 200.000 tấn, hàng lỏng đến 150.000 tấn (tàu xuất sản phẩm), dầu thô đến 320.000 tấn, cơ bản đã đạt được các mục tiêu quy hoạch đến năm 2020.
Trong sự phát triển của lĩnh vực hàng hải, nguồn vốn ngoài ngân sách huy động đầu tư cho lĩnh vực hàng hải trong giai đoạn vừa qua khoảng 173.400 tỷ, xấp xỉ 86% tổng vốn đầu tư.
Theo Bộ GTVT, để thu hút lượng vốn lớn như vậy, với những chính sách mở về đầu tư, thời gian qua cảng biển Việt Nam đã thu hút được các doanh nghiệp đầu tư cảng biển, nhà đầu tư là các nhà khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn của thế giới tham gia đầu tư xây dựng và vận hành khai thác cảng.
Do đó, việc triển khai các quy hoạch có tính kỹ thuật, chuyên ngành nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển là điều cần thiết để hệ thống cảng biển phát triển đồng bộ, liên tục trong quy hoạch tổng thể, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.