“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi/ Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên” - chỉ cần hai câu thơ ấy, nữ sĩ đã khái quát phận người phụ nữ trong chiến tranh. Bà ngầm đưa ra chân lý “hoà bình là điều kiện tiên quyết của hạnh phúc con người và hạnh phúc lứa đôi”.
Năm 1746, ba năm chờ chồng dài đằng đẵng vừa kết thúc, bà lại phải từ biệt mẹ già, cháu nhỏ theo chồng vào Nghệ An - nơi ông Kiều được triều đình bổ nhiệm làm Đốc đồng. Tuy nhiên, chẳng may trên đường đi bà đã lâm trọng bệnh, rồi qua đời vào ngày 11/9 (âm lịch) năm 1748, khi vừa 44 tuổi.
Đoàn Lệnh Khương là nữ học sư nổi tiếng đương thời. Ảnh minh họa: IT |
Đoàn Lệnh Khương sinh trưởng nơi quê hương văn hiến, trong một dòng họ nho gia, có người mẹ thông minh, nhân đức, người cha phong độ hiền tài. Lệnh Khương thuở nhỏ đã tỏ ra hơn người, thông minh lanh lợi, chăm chỉ học hành, có chí nối nghiệp cha ông.
Cha của bà là Đoàn Doãn Luân, thi Hương đỗ đầu, nhưng chỉ ở nhà dạy học, được người đương thời rất kính trọng. Nhà ông là một trường học luôn có những buổi đối đáp văn chương, ông và em gái là Đoàn Thị Điểm đón tiếp các bậc danh sĩ để cùng thi phú xướng họa.
Năm Lệnh Khương lên 9 tuổi thì phụ thân qua đời, bà được cô ruột là Đoàn Thị Điểm đem về nuôi dạy. Vừa học nội trợ, vừa học văn chương, Lệnh Khương rất mực chăm chỉ. Năm 16 tuổi bà đã nổi tiếng khắp vùng, tài sắc chẳng kém gì cô Điểm.
Chuyện cũ ở địa phương kể rằng: Một hôm Lệnh Khương đang đi chợ về thì có ông lão chạy ra đón đường, mời bà vào hàng nước để thưa chuyện. Ông nói: “Thưa cô, tôi là người làng bên, nghe tiếng cô là người hay chữ nên nhờ cô giúp cho một việc. Tôi nay già yếu, nhà nghèo lại không con, không nơi nương tựa, cô hãy làm phúc, cho đôi câu đối, để với đôi câu đối ấy tôi có thể kiếm miếng ăn. Gặp bất kì đám hiếu hay đám hỷ tôi có thể dùng được vào viếng hay mừng”.
Một đôi câu đối ấy mà gặp vui có thể chia vui, gặp dịp buồn lại chia buồn thì khó thật, ông lão này thử mình chăng? Nhưng nhìn vẻ mặt ông lão, bà biết ông nói rất thật. Sau một lát suy nghĩ bà đọc: “Nhất đức tại thiên tùy sở phú/ Thất tình ư ngã khởi vô tâm”.
Và bà giảng giải: Người ta ở đời gặp may hay rủi, vui hay buồn tất cả là tùy ở cái đức. Vậy mà cái đức ấy là do trời phú cho. Phàm lấy vợ, lấy chồng, làm nhà, làm cửa hoặc mất người, mất của, tốt xấu, lành dữ đều là do cái đức mà ra.
Vế thứ nhất đối với việc vui hay buồn đều hợp cả, còn vế thứ hai nghĩa là: Con người có 7 tính là: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục (mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, muốn). Cho nên khi gặp việc vui thì lòng cũng vui được, mà gặp việc buồn thì ta cũng buồn được, đâu có vô tâm. Do đó, vế thứ hai có thể là lời chúc mừng mà cũng có thể là chia buồn.
Tiếng tăm tài sắc vẹn toàn của Đoàn Lệnh Khương ngày càng vang xa. Một cung phi ở làng Bảo Vực muốn đưa bà vào cung, song bà từ chối. Có thuyết nói rằng, người cung phi này muốn tiến cử cô vào cung làm vợ hoàng tử Duy Kỳ (tức vua Lê Cảnh Hưng sau này).
Trong công trình khoa học “Danh nhân Hà Nội” do cố GS Vũ Khiêu chủ biên đã nhận định nữ học sư Đoàn Lệnh Khương là nhà giáo dục nổi tiếng nhất của Thăng Long từ thời dựng nước đến thế kỷ 19 - bên cạnh các danh nhân Chu Văn An, Lương Thế Vinh, Nguyễn Văn Siêu, Đoàn Thị Điểm, Vũ Tông Phan.
Số phận nhân duyên của Lệnh Khương có vẻ khá giống với người cô Đoàn Thị Điểm. Tài giỏi là vậy nhưng đường tình duyên lại lận đận - năm 31 tuổi mới làm vợ kế của ông Nguyễn Xuân Huy – quan Đốc đồng trấn Sơn Nam, sinh hạ được một người con gái.
Cuộc nhân duyên này thật ngắn ngủi, chung sống chưa được bảy năm thì ông Huy mất. Trước đó ít ngày, người con riêng của ông Huy và cô con gái cũng bị bệnh qua đời. Bà khóc chồng bằng đôi câu đối vừa như hi sinh, vừa như ngậm ngùi, lại vừa như khuyên mình gắng gượng:
“Tuyền hạ thừa hoan, ưng tri quân hữu tử/ Mộng trung đối thoại, thùy vị thiếp vô phu” - Dịch: Dưới suối vàng vui vầy, tỏ biết chàng có con/ Trong giấc mộng chuyện trò, ai bảo thiếp không chồng.
Không chịu để số phận dập vùi, bà về Thăng Long mở lớp dạy học, ngụ ở phường Hà Khẩu (nay thuộc quận Hoàn Kiếm). Học trò theo học rất đông, xa gần đều gọi bà là nữ học sư.
Thơ văn của Đoàn Lệnh Khương đến nay phần lớn đã thất truyền, chỉ còn đôi câu đối và bài thơ “Nước Đằng” lưu truyền trong nhân gian. Bài thơ này bà làm khi còn đi học, nhân lúc cô Điểm giảng sách về nước Đằng: Đằng là nước nhỏ, ở giữa hai nước Tề và Sở, rất khó khăn trong việc bang giao.
Vừa lúc đó nhà hàng xóm có hai bà vợ cãi nhau om sòm, bà Điểm vui miệng bảo học trò vịnh thử và Đoàn Lệnh Khương đã làm bài thơ tứ tuyệt: “Đằng quốc xưa nay vốn nhỏ nhen/ Lại thêm Tề, Sở ép hai bên/ Quay đầu với Sở e Tề giận/ Ngoảnh mặt với Tề sợ Sở ghen”.
Các tài liệu đều cho biết, nữ học sư Đoàn Lệnh Khương mất năm 1800, hưởng thọ 75 tuổi.