Đoàn Tử Quang (1818 - 1928), quê ở làng Phụng Đạt, xã Phụng Công, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Đức Hòa, Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ông đã để lại cho hậu thế tấm gương sáng về đức hiếu học và ý chí vươn lên. Đồng thời cũng nêu cao đức hạnh của một người học chữ thánh hiền – lòng hiếu thảo làm vui lòng đấng sinh thành.
21 lần lều chõng
Đoàn Tử Quang là con thứ hai của ông Đoàn Nhuyện (Liệt Giang cư sĩ) và bà Lê Thị Nậm. Mồ côi cha từ nhỏ, Đoàn Tử Quang lớn lên dưới sự dạy bảo của người mẹ. Được mẹ khuyến khích học hành, theo đuổi khoa cử để lập công danh nên ông chăm chỉ học tập.
Dù vậy, như câu thành ngữ “học tài thi phận”, ông thi nhiều lần mà không đỗ. Mãi tới năm 49 tuổi, ông mới lần đầu tiên thi đỗ Tú tài và cũng chỉ đỗ Tú tài lần thứ hai khi đã 66 tuổi. Các tư liệu lịch sử cho biết, trước khi đỗ cử nhân ở tuổi 82, Đoàn Tử Quang đã có đến 21 lần lều chõng tham gia ứng thí.
Theo ông Đoàn Tử Hòa, cháu năm đời của Đoàn Tử Quang thì ông vốn tên Đoàn Tự Cận. Sau nhiều lần lều chõng đi thi mà chỉ hai lần đỗ Tú tài, nên cho rằng do cái tên mình như bị trời giam hãm (Tự - trong chữ Hán như có mái che ở trên không nhìn được cao xa; Cận - tức gần), nên đã thay đổi bằng cách “tháo cái mái” trên đầu chữ “Tự” thành chữ “Tử” (nghĩa là con), và đổi tên Cận thành Quang (sáng), như một sự nhận lãnh trách nhiệm xây dựng họ Đoàn Tử theo nghiệp thi thư.
Thế nhưng, trong nhiều khoa thi tiếp, cánh cửa bảng vàng vẫn im ỉm đóng. Vào khoa thi Canh Tý (1900), Đoàn Tử Quang không định đi thi vì tuổi quá cao. Thế nhưng do khoa ấy làng ông không có thí sinh nào, nên chức sắc trong làng đã động viên ông đi thi.
Năm ấy, vợ cả ông vừa mất, nên ba con trai của ông không được dự thi theo luật “đoạn tang” (đang có tang cha, mẹ không được đi thi). Không thuyết phục được ông, các chức sắc phải đến nhờ mẹ ông là cụ Lê Thị Nậm. Là người hiếu nghĩa, ông tuân lời mẹ, lều chõng đến trường thi.
Thi để báo hiếu mẹ
Người đỗ đầu khoa thi năm Canh Tý (1900) – chí sĩ Phan Bội Châu có câu đối tặng “cụ sĩ tử” Đoàn Tử Quang, rằng: “Xảo thật trời kia, xảo thật nguyệt kia, hẵng đem mùi cay đắng thử khách tài hoa, đã toan phụ tám mươi năm nợ nần thư kiếm/ Lạ thay người ấy, sướng thay người ấy, muốn ôm mớ văn chương về trả tạo hóa, mà lại xem muôn ngàn dặm cái phong vân”.
Người đỗ đầu khoa thi năm Canh Tý (1900) – chí sĩ Phan Bội Châu có câu đối tặng “cụ sĩ tử” Đoàn Tử Quang, rằng: “Xảo thật trời kia, xảo thật nguyệt kia, hẵng đem mùi cay đắng thử khách tài hoa, đã toan phụ tám mươi năm nợ nần thư kiếm/ Lạ thay người ấy, sướng thay người ấy, muốn ôm mớ văn chương về trả tạo hóa, mà lại xem muôn ngàn dặm cái phong vân”.
Qua bốn kỳ thi, Đoàn Tử Quang đạt kết quả hai ưu, hai thứ, kém thủ khoa Phan Bội Châu chỉ có một ưu. Đáng lẽ Đoàn Tử Quang được xếp Á nguyên nhưng khi xét trong quyển, nơi cộng các chỗ tẩy xóa, theo quy định thí sinh phải viết ba chữ “cộng quyển nội” rồi mới được kê ra từng lỗi, thì ông lại không viết.
Lỗi này là lỗi phạm trường quy, theo luật phải đánh hỏng, song quan chánh chủ khảo cảm phục chí học hành bền bỉ hiếm có xưa nay nên đã làm tờ tấu về triều xin cho ông đỗ nhưng chỉ xếp thứ 29 trong 30 người.
Việc một ông lão 82 tuổi dự thi đã được Chánh Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và Phó Chủ khảo Mai Khắc Đôn phải ghi chép lại thành chuyện dưới đầu đề “Mẩu chuyện hay được ghi lại ở Trường Thi” trong sách “Khoa Canh Tý”: “Ông lão vào tôi rời khỏi ghế, cầm tay ông lão cùng đi mà rằng “Đẹp làm sao! Thọ làm sao!”. Chí khí cao mà kiên định vậy! “xin hỏi mắt cụ có bị mờ không”? Ông lão trả lời “có bị mờ”. Tôi lại hỏi “Chân gối cụ có bị mỏi không?”. Ông lão đáp: “Còn có thể đi bộ, chạy, lễ, bái, đưa, đón được”.
Ông lão mang ống quyển vào, xét số, hạ lều, xong ngồi ngay ngắn ở giữa chiếu của mình. Trời về chiều khi đã vài ba chục thí sinh nộp bài thì ông lão vai mang ống quyển, tay kéo xe lều chõng lọc cọc, cùng các thí sinh kẻ trước người sau ra về...
Vào phúc hạch, viên đề tuyển đưa danh sách thông báo ra ngoài. Tên ông lão có trong số đó. Đến khi đưa quyển vào phúc duyệt, không hề bài nào có chữ đậm nhạt không đúng kiểu hoặc bị nghiêng đổ. Sau khi khớp phách nên biết quyển bài của ông lão về tài năng, ưu; thơ phú, ưu; văn sách, thứ; phúc hạch, trung bình...”.
Ông vào lạy tạ quan trường. Quan trường nâng dậy không dám nhận lạy của ông mà rằng: “Xin hỏi cụ có người con nào cùng thi không?”. Ông đáp: “Thưa có, có ba đứa con cũng đã đi thi ở nhị trường đều đạt trung bình. Vì mùa xuân vừa qua mẹ chúng mất nên không thi tiếp nữa. Lão còn mẹ, lão thi cho mẹ yên lòng”.
Quan trường lại hỏi thăm tuổi thọ bà mẹ. Ông trả lời với giọng xúc động: “Chỉ hai năm nữa là vừa chẵn 100”. Khi mẹ tôi 17, trời đoạt mệnh cha tôi. Mẹ tôi thủ tiết thờ chồng, nuôi con, đinh ninh con trẻ mồ côi sẽ đỗ... cho đến khi tôi thành niên, vua Tự Đức xuống chiếu ban khen những người đàn bà trinh tiết.
Mẹ tôi được thưởng 15 lạng bạc. Mẹ tôi bảo tôi: “Từ ngày mẹ về làm dâu ở gia đình này, mẹ chưa từng thấy cha con bỏ đọc sách một ngày nào, có chí mà chưa có toại. Con cần phải học làm gương cho con cháu nối đời noi theo…”.
Ngày xướng danh, khi được cấp mũ áo ra trình diện bái ân vua, quan viên triều đình và các tân khoa không hề thấy một Đoàn Tử Quang xiêu vẹo ốm yếu. Yến lão sắp xong, ông lấy một ít thức ăn cho vào trong tay áo. Những người ngồi bên cười nghĩ chắc ông lão lấy nhiều về chia cho con cháu. Song họ đã nhầm, ông lấy lộc vua về để dâng mẹ.
Sống qua 13 đời vua Nguyễn
Về đến quê, Tổng đốc Nghệ An khi ấy là Đào Tấn đã cảm tác bài thơ tặng Đoàn Tử Quang: “Khá lắm Hương sơn Đoàn Tú tài/Xuân xanh vừa đúng tám mươi hai/Trường văn múa bút râu như mác/Quế đỏ cành thơm cướp vác vai/Quế đỏ cành thơm cướp vác vai/Ung dung chống gậy tới Nam cai/Nhà huyên tuổi hạc chín mươi tám/Giờ thấy con ta đắc ý rồi”.
Theo quy định ở triều nhà Nguyễn, các quan viên tới tuổi 65 sẽ về trí sĩ. Song để đền đáp và khuyến khích ý chí và nghị lực phi thường của Đoàn Tử Quang nên triều đình đặc cách bổ dụng làm quan. Từ năm 1901 - 1903, ông được cử làm Huấn đạo Hương Sơn, rồi huấn đạo Can Lộc.
Đến tuổi 85, Đoàn Tử Quang xin về trí sĩ sau 3 năm gắn bó với chức Huấn đạo (trông nom việc học) để phụng dưỡng mẹ già khi ấy đã trên 100 tuổi. Năm ông 106 tuổi - triều đình đã phong Đoàn Tử Quang chức Hàn lâm viện thị độc.
Ngày 7/2 năm Mậu Thìn (1928), ông qua đời khi đã 110 tuổi. Cuộc đời Cử nhân Đoàn Tử Quang được đánh giá là hiếm có. Ông sống qua suốt 13 đời vua Nguyễn từ Gia Long cho đến Bảo Đại, từng chứng kiến biết bao thăng trầm của vận nước. Ông cũng là một trong những sĩ tử hiếm có và thú vị nhất trong lịch sử khoa bảng thời phong kiến.
12 năm sau khi ông mất, học giả Hoàng Xuân Hãn viết về ông trên báo Thanh Nghị năm 1944, rằng: “Thấy tuổi già tưởng văn non mà thương, hóa ra những món tưởng non lại thành cứng. Thấy già tưởng chữ viết lòe nhòe xiên xẹo mà chính ra lại cứng cáp tốt tươi. Tưởng bênh cho may đậu tú tài mà lại tự mình sắp đậu giải nguyên.
Tưởng tám mươi hai tuổi là già lắm, mà còn mẹ chín mươi tám tuổi. Chín mươi tám tuổi mà góa chồng từ thuở mười bảy. Tưởng lòa, lảng, yếu mà sáng tỏ, mạnh. Tưởng lấy phần cho cháu chắt mà chính lấy phần cho mẹ già. Tưởng vì công danh mà đeo đuổi khoa trường mà chính ra là muốn cho vui lòng mẹ”.
Hiện, ở xã Đức Hòa (Đức Thọ - Hà Tĩnh) vẫn còn ngôi nhà rường ba gian hai chái ven sườn của rú Nậy – là nơi mà Cử nhân Đoàn Tử Quang từng sinh sống. Trên bàn thờ, bức ảnh chụp chân dung còn lưu lại của cụ Đoàn Tử Quang trong bộ quan phục rất đẹp - phong thái tĩnh tại, râu tóc bạc phơ.
Bức ảnh này, theo con cháu họ Đoàn Tử - vào năm 1924, khi đó cụ Đoàn Tử Quang đã 106 tuổi, được chụp nhân trong chuyến thăm Hà Tĩnh của vua Khải Định.