3 Trạng nguyên là học trò của Trần Ích Phát: Vũ Kiệt người huyện Thuận Thành, (Bắc Ninh) đỗ khoa thi năm Nhâm Thìn niện hiệu Hồng Đức thứ 3 (năm 1472); Trần Sùng Dĩnh quê huyện Nam Sách (Hải Dương), đỗ khoa thi Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487); Nghiêm Viện quê huyện Quế Võ (Bắc Ninh), đỗ khoa thi năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496).
Đặc biệt là 2 khoa thi năm 1487 và 1498, thì danh hiệu Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) đều là học trò của thầy Trần Ích Phát. Khoa thi năm Đinh Mùi, triều Lê Thánh Tông (1487), ngoài Trần Sùng Dĩnh chiếm Trạng nguyên, thì người đứng thứ 2 là Bảng nhãn Nguyễn Đức Huấn (người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và người đứng thứ 3 là Thám hoa Thân Cảnh Vân (quê ở Yên Dũng, tỉnh Bắc Ninh).
Đến khoa thi năm Bính Thìn, cũng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1496) thì toàn bảng Tam khôi cả 3 người cũng là học trò của thầy Trần Ích Phát. Đó là Nghiêm Viện đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Huân (người Võ Giang, tỉnh Bắc Ninh) đỗ Bảng nhãn và Đinh Lưu Kim (người Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương) đỗ Thám hoa.
Dạy trò cách tư duy thực tế
Có thể nói Trần Ích Phát đã có công đào tạo một loạt thần đồng nước ta thời bấy giờ. Ông đã phát huy được trí thông minh sáng tạo của lớp học trò trẻ tuổi, giúp họ đoạt được các học vị cao nhất nước. Nhiều bài thi do học trò của ông chắp bút đều là những áng văn trị quốc bất hủ, trở thành hình mẫu cho các sĩ tử sau này học tập.
Đặc biệt bài Văn sách “Đế Vương trị quốc” của Trạng nguyên Vũ Kiệt trở thành kiệt tác trị quốc, chống tham nhũng, chấn hưng giáo dục. Vũ Kiệt - người học trò của thầy Trần ích Phát đã vận dụng, viện dẫn những sách vở kinh điển nổi tiếng và sử dụng kinh nghiệm tư duy sáng tạo để làm một bài nghị luận sắc sảo đến hơn 3 vạn chữ.
Khi chấm bài, nhà vua và các khảo quan đều lấy làm hài lòng về kiến thức uyên bác của Vũ Kiệt. Trong luận văn của mình, ông đã đề xuất với triều đình những giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn các tệ nạn xã hội nhằm chấn hưng đất nước.
Chẳng hạn như khi vua hỏi tại sao quan lại được chọn cử nghiêm ngặt, lại có thêm có thêm các chức quan ngự sử, giám sát theo dõi, kiểm tra mà vẫn có nhiều người tham ô, hối lộ, làm những việc đồi bại? Vũ Kiệt đã lập luận: “Việc giáo dục phẩm chất cho quan lại phải tiến hành ngay từ lúc họ ngồi trên ghế nhà trường. Nếu khi học, họ đã có tư tưởng dối trá, mẹo mực, thì khi ra đảm nhiệm việc quan làm sao có thể có được phẩm chất thanh liêm, trong sạch”.
Hoặc Vũ Kiệt đã đề xuất muốn giữ kỷ cương phép nước thì trước tiên phải thực hiện thật nghiêm túc từ vua cho đến triều đình. Bởi lẽ không thể để nước đầu nguồn đục mà lại đòi hỏi nước cuối nguồn phải trong.
Qua vài tài liệu ít ỏi còn lại, người nay có thể hình dung phần nào phương pháp dạy học của thầy Trần Ích Phát. Đó là đòi hỏi học trò phải biết rèn luyện tư cách, phẩm chất, biết tư duy vận dụng kiến thức sách vở và kinh nghiệm thực tế.
Các đề thi đình thời kỳ này nhà vua thường nêu ra những vấn đề liên quan đến việc cai trị đất nước, ví như đề thi năm Nhâm Thìn (1472) là “Đế vương trị thiên hạ”, đề thi năm Đinh Mùi (1487) là “Đạo trị nước”, đề thi năm Giáp Thìn (1484) là “Triều Tống dùng nho sĩ”…
Việc học trò của thầy Trần Ích Phát có những luận văn xuất sắc, chứng tỏ thầy giáo Trần Ích Phát có phương pháp dạy học cực kỳ hiệu quả, khi gắn kết kinh điển chữ nghĩa với tư duy suy xét thực tiễn đời sống.
Trần Ích Phát cũng dạy cả đạo làm người, làm quan cho các học trò của mình. Vì thế mà học trò của ông đều trở thành những bề tôi chính trực, làm quan thanh liêm một lòng vì dân, giúp nhà Lê bước vào giai đoạn thịnh trị.
So với trường Quốc Tử Giám cùng thời, thì số lượng nhân tài xuất thân từ trường của Trần Ích Phát dường như vượt trội. Bởi vậy, thời bấy giờ dân gian truyền rằng ngót nửa số quan trong triều là học trò của Trần Ích Phát.
Vua Lê Thánh Tông khi còn là hoàng tử lưu lạc trong dân gian, đã nghe tiếng Trần Ích Phát nên mến phục ông. Trong số 28 thành viên của Hội Tao đàn Nhị thập bát tú, do vua Lê Thánh Tông sáng lập và làm chủ súy, gồm những vị đại khoa tài giỏi và có sự góp mặt của một số học trò thầy Trần Ích Phát.
Khi Lê Thánh Tông lên ngôi vua (1460), dù biết Trần Ích Phát chỉ đỗ hương tiến, song vì yêu mến nhân đức và tài năng nên vua đặc cách xem ông ngang với các bậc đỗ đại khoa và phong cho nhiều chức tước cao, từ Giám sát ngự sử, Hiến sát sử, cho đến Đông các đại học sĩ.