Bia thứ hai có tiêu đề “Vũ tướng công thực lục bi” viết theo lối chữ chân. Trán bia chạm lưỡng long chầu nhật, mặt sau chạm hai chim phượng chầu mặt trời, diềm chạm hoa cúc dây, chân chạm hoa sen cách điệu.
Bia có bốn mặt: Mặt trước ghi hành trạng Vũ tướng công: Năm sinh, năm mất, đường học hành, quan lộ; hành trạng phu nhân Nguyễn Thị Ngọc Hạo, bà tên húy Kim Tề, là con gái công bộ Tả thị lang và cụ bà Vũ Thị Hằng. Năm Canh Thìn (1640), bà làm lễ vu quy, sinh một con trai, bốn con gái được phong ấm Thận Nhân (1657). Bà mất năm Tân Sửu (1661).
Mặt sau ghi tài sản ruộng đất chia cho các con, phần mộ tổ tiên dặn lại đời sau thờ cúng. Văn bia do Vũ tướng công soạn. Mặt ba khắc bài thơ thất ngôn bát cú “Miên tử tôn hành thiện chí” (khuyên con cháu làm điều thiện) và đôi câu đối. Mặt bốn khắc bài thơ “Miên tử tôn cần học thi” (khuyên con cháu gắng học tập) và đôi câu đối.
Đề tài sấu đá ở lăng Vũ Hồng Lượng. |
Lăng Tiến sĩ Vũ Hồng Lượng được xây bằng đá trên gò đất cao hướng Đông trông ra sông Cửu Yên, cách sông 130m, phía trước có bệ đá. Đường chính giữa lát đá, hai bên sân có hai nhà bia. Tại hai góc nền thờ có hai cặp nghê chầu hai bên cây hương và sấu đá. Đặc biệt là hệ thống tượng người, tượng linh thú và tượng thú đặt ở nhiều vị trí trong lăng mộ.
Với mặt bằng hình vuông với đường linh đạo kéo dài từ cổng vào khu mộ tạo thành kiểu mặt bằng không gian khu hành lễ - khu vực được cho là quan trọng nhất của lăng mộ, gắn với ý nghĩa nghinh đón, tưởng niệm, nơi gặp gỡ của thế giới nhân gian với thế giới linh hồn của người chết.
Theo thống kê của ngành văn hóa Hưng Yên, lăng Vũ Hồng Lượng có 2 cặp tượng người, 2 tượng nghê, 2 tượng lân và 2 tượng chó bằng chất liệu đá. Trong đó, 1 cặp tượng chó gắn với bên trong cổng lăng, đặt ở vị trí hai bên lối vào, có chiều cao 68cm và 80cm, chiều rộng 38 - 45cm.
Những tượng chó này thường được đặt ngoài cổng với hướng nhìn ra ngoài cổng lăng, đặc điểm này thể hiện vai trò canh giữ, bảo vệ giống như chức năng của loài chó thực ở ngoài đời.
Tượng nghê ở lăng Vũ Hồng Lượng được tạo tác khá mạch lạc giữa các phần thân, cổ và đầu. Tỉ lệ giữa các phần cũng hài hòa thanh thoát. Các chi tiết như tai, mắt, miệng, râu bờm, đuôi, sống lưng… không quá rườm rà. Khối tượng căng khỏe và hình tượng được thiêng hóa những chi tiết mang tính trang trí với biểu tượng như mây lưỡi lửa, bờm xoắn…
Tượng nghê ở lăng Vũ Hồng Lượng nhỏ nhắn, kiểu dáng tương đối giống với kiểu dáng tượng chó ngồi với hai chân trước chống thẳng, hai chân sau cuộn khép chặt vào khối bụng.
Trên bề mặt khối bố cục xuất hiện các hình thức hoa văn, họa tiết, mô típ trang trí như đao mác, vân mây gắn liền với cấu trúc các khớp của bốn chi. Trên thân có nhiều phần có khối bề mặt để trống thể hiện lớp bề mặt da thịt nở căng tròn của thân hình.
Ở cặp tượng sấu trong lăng Vũ Hồng Lượng với đặc điểm của một loài linh thú có khối đuôi dài tương đương với thân, nên nghệ thuật trang trí được thể hiện trên khối đuôi với nhiều nét song song uốn lượn sóng nước.
Giống như tượng lân, tượng sấu cũng chỉ được trang trí với mật độ họa tiết hoa văn vừa phải. Chủ yếu vẫn là các mô típ hoa văn hình xoắn ốc gắn với khối đầu, hai bên hàm, đặc biệt là hai dải vân xoắn ốc đăng đối nhau qua hai bên sống lưng.
Ngoài ra còn nhiều phù điêu chạm khắc nhiều các con vật quen thuộc như cá, chim, rùa, ếch, ba ba, uyên ương… Trang trí trên thành lan can và bia là những đề tài về rồng, phượng, phù điêu người đội chữ, tạo ra nghệ thuật chạm khắc riêng biệt có ở lăng Vũ Hồng Lượng.
Thông qua ngôn ngữ, hình thức của nghệ thuật bố cục cho ta thấy một mạch chuyển động về hình thể, đường nét tổng thể cũng như đường nét chi tiết tạo thành hệ thống bố cục chặt chẽ cả về hình thức và nội dung.
Mộ phần Tiến sĩ Vũ Hồng Lượng. |
Khảo sát từ chỉ và lăng mộ của Tiến sĩ Vũ Hồng Lượng, giới nghiên cứu cho biết - khi còn sống, Vũ Hồng Lượng đã tự thiết kế, xây dựng sinh phần cho bản thân và thờ tổ tiên. Sinh phần được xây năm 1680, tức là xây trước khi mất 9 năm. Đây là công trình chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí bằng đá.