Cuộc cách mạng điều trị uốn ván
Trong cuộc Nội chiến 1865, cứ 500 người đàn ông thì có một người chết vì bệnh uốn ván do dính vết thương trong trận chiến. Để tránh việc tỷ lệ tử vong quá cao của bệnh uốn ván, các bác sĩ quân đội đã đầu tư rất nhiều vào liệu pháp huyết thanh. Họ đã thử nghiệm cả thuốc chống độc cho việc phòng ngừa và điều trị.
Thế kỷ 19 được xem là một cuộc cách mạng đối với việc nghiên cứu bệnh uốn ván, khi căn bệnh này được nhân rộng lần đầu tiên vào năm 1884, Arthur Nicolaier (nhà khoa học người Đức gốc Do Thái) đã phân lập được độc tố giống strychnine của bệnh uốn ván từ vi khuẩn đất sống tự do, kỵ khí.
Kẹp Lockjaw Forceps được sử dụng vào những năm 1990 dùng để mở hàm của nạn nhân uốn ván khi lên cơn co thắt.
Căn nguyên của căn bệnh này đã được làm sáng tỏ thêm vào năm 1884 bởi Antonio Carle và Giorgio Rattone, hai nhà nghiên cứu bệnh học của Đại học Turin (Ý), những người đã chứng minh khả năng lây truyền của bệnh uốn ván lần đầu tiên. Họ đã tạo ra bệnh uốn ván ở thỏ bằng cách tiêm mủ từ một người bị bệnh uốn ván đã tử vong vào dây thần kinh tọa của con vật này và thử phản ứng của nó.
Những nghiên cứu này đã dẫn đến việc Kitasato và Emil von Behring cùng những người khác phát hiện ra chất chống độc uốn ván vào năm 1891, một thứ đã làm giảm đáng kể số ca tử vong do uốn ván sau khi được sử dụng trong Thế chiến thứ nhất.
Bác sĩ Shibasaburo Kitasato, người đã tìm ra vi trùng trong máu nạn nhân uốn ván.
Năm 1924, loại độc tố uốn ván đầu tiên được phát triển và đã được tiêm cho tất cả các binh sĩ Hoa Kỳ trước khi bước vào Thế chiến thứ hai để ngăn ngừa vết thương do chiến đấu, cuối cùng được sử dụng rộng rãi dưới dạng vaccine uốn ván vào cuối những năm 1940.
Vaccine uốn ván đã được đưa vào tiêm chủng thường quy cho trẻ em vào cuối những năm 1940, khiến bệnh uốn ván trở thành một căn bệnh được quan tâm trên toàn Hoa Kỳ. Vào thời điểm đó, khoảng 500–600 trường hợp (khoảng 0,4 trường hợp trên 100.000 dân) đã được báo cáo mỗi năm.
Các binh sĩ Australia bị thương được tiêm thuốc kháng độc tố uốn ván bên ngoài trạm thay quần áo y tế vào năm 1918
Sau những năm 1940, tỷ lệ mắc bệnh uốn ván ở Hoa Kỳ được báo cáo đã giảm đều đặn. Kể từ giữa những năm 1970, khoảng 50 đến 100 trường hợp (khoảng 0,05 trường hợp trên 100.000) đã được báo cáo hàng năm ở Hoa Kỳ. Gần đây hơn, từ năm 2009–2018, trung bình có 29 (khoảng 18–37) trường hợp được báo cáo mỗi năm.