Khối ngành sức khỏe (VI) và đào tạo giáo viên (I) là 2 khối ngành ghi nhận có nhiều sự biến động mạnh mẽ nhất, trong đó quy mô đào tạo ngày càng giảm.
Cụ thể, năm học 2020-2021, quy mô đào tạo 2 khối ngành này xấp xỉ nhau với số lượng khoảng 150.000 sinh viên/năm. Ở hai năm học tiếp theo, khối ngành sức khỏe tiếp tục giảm đều quy mô đào tạo qua từng năm, đến năm 2022-2023 số lượng chỉ còn 143.775 sinh viên.
Trong khi đó, quy mô đào tạo giáo viên có sự tăng nhẹ ở 2 năm đầu (từ 151.284 sinh viên năm học 2020-2021 tăng lên 151.504 sinh viên vào năm học 2021-2022). Đến năm học 2022-2023, quy mô đào tạo khối ngành này lại bất ngờ giảm sâu tới gần một nửa quy mô đào tạo (năm 2022-2023 chỉ còn 89.321 sinh viên).
Đối với đào tạo sau đại học, quy mô đào tạo các khối ngành đều có xu hướng giảm. Xét riêng từng khối ngành, hiện quy mô đào tạo khối ngành III ở cả bậc thạc sĩ và tiến sĩ đều có quy mô lớn nhất.
Khối ngành V (Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật, kỹ thuật, sản xuất và chế biến, kiến trúc và xây dựng, nông lâm và thủy sản, thú y) và VII (Nhân văn, khoa học xã hội và hành vi, báo chí và thông tin, dịch vụ xã hội, khách sạn-du lịch-thể thao và dịch vụ cá nhân, dịch vụ vận tải, môi trường và bảo vệ môi trường, an ninh quốc phòng) lại có sự đổi ngôi về quy mô đào tạo giữa bậc đại học và sau đại học.
Theo đó, đối với đào tạo đại học, khối ngành V có quy mô lớn hơn khối ngành VI (Năm 2023, quy mô đào tạo đại học khối ngành V là 586.024 sinh viên/năm, khối ngành VII là 401.064 sinh viên/năm). Tuy nhiên khi đào tạo bậc sau đại học, số lượng người học ở khối ngành VII lại lớn hơn khối ngành V.
Cụ thể, ở bậc thạc sĩ, ngành V có quy mô đào tạo là 14.485 sinh viên, ngành VII 20.411 sinh viên; Ở bậc tiến sĩ, ngành V có quy mô 1.912 sinh viên, ngành VII có quy mô 20.078 sinh viên (năm 2023).
Tương tự với quy mô đào tạo trình độ đại học, hai khối ngành II (nghệ thuật) và khối ngành IV (khoa học sự sống, khoa học tự nhiên) tiếp tục có quy mô đào tạo sau đại học thấp nhất.
Riêng khối ngành đào tạo giáo viên và ngành sức khỏe lại có một chi tiết khá thú vị. Theo đó, quy mô đào tạo khối ngành giáo viên ở bậc thạc sĩ lớn hơn quy mô đào tạo khối ngành sức khỏe (lần lượt là 9.638 sinh viên và 6.408 sinh viên, năm 2023). Tuy nhiên, vị trí này lại thay đổi ở bậc tiến sĩ: Quy mô đào tạo tiến sĩ khối ngành sức khỏe lớn hơn khối ngành đào tạo giáo viên, lần lượt là 937 nghiên cứu sinh và 682 nghiên cứu sinh, năm 2023.
Từ số liệu thống kê, báo cáo của Bộ GD&ĐT đã chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong việc triển khai công tác đào tạo năm học 2022-2023. Trong đó, Bộ GD&ĐT nhận định vẫn có sự chênh lệch lớn giữa các khối ngành. Một số khối ngành (II, IV) tiếp tục gặp khó khăn trong tuyển sinh. Ngoài ra, công tác tác truyền thông tư vấn hướng nghiệp đến thí sinh một số nơi chưa hiệu quả, một số lĩnh vực có nhu cầu nhưng thiếu người học.
Ngoài ra, về đội ngũ giảng viên, số liệu từ báo cáo cũng cho thấy đội ngũ giảng viên toàn thời gian có sự tăng cả về số lượng và chất lượng trong vòng 2 năm, năm 2022 và 2023.
Cụ thể, năm 2023, đội ngũ giảng viên được bổ sung thêm khoảng hơn 2.300 người so với năm 2022. Trong đó, chủ yếu tăng đội ngũ giảng viên có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ (giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng người 1090 người, tiến sĩ tăng 1.060 người). Đội ngũ giảng viên là giáo sư, phó giáo sư lại có sự giảm nhẹ về số lượng (giáo sư giảm 49 người, phó giáo sư giảm 39 người).
Bên cạnh đó, cơ chế tự chủ đã tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo đẩy mạnh công tác tuyển dụng và nhân sự theo hướng nâng cao chất lượng, tăng số lượng giảng viên, giảm tuyển dụng các vị trí viên chức và người lao động phục vụ, hành chính nhờ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.