Khi quân giặc rút đi, Lê Lợi sai quân lính tìm xác con chó quý của mình và truyền lệnh chôn cất nó tử tế. Từ đó, thác có tên theo tiếng người Thái là Má Háo, đọc chệch đi là Ma Hao - tức là chó ngáp.
Thác bắt nguồn từ đỉnh Pù Rinh có độ cao gần 1.000m so với mặt nước biển, có diện tích trên 178ha bao gồm thác nước, suối và rừng. Các dòng suối nhỏ chảy dọc theo những cánh rừng già hợp thành dòng suối lớn đổ xuống tạo thành thác lớn.
Dưới chân thác là những khối đá lớn được bào mòn theo thời gian tạo nên nhiều hình thù kỳ thú, chỗ thì tạo hình tượng như là đàn voi đang quỳ xuống núi, nơi thì các hòn đá chồng xếp lên nhau thành hình trống mái, chỗ thì các hòn đá như những quả trứng khổng lồ đủ mọi kích thước.
Cho đến nay, thác Ma Hao vẫn còn rất nguyên sơ, chưa bị bàn tay con người can thiệp vào nên đem lại cho những người đến thưởng lãm cảm giác hoà cùng rừng núi nước non, và còn nghe những câu chuyện mang âm hưởng hào khí năm xưa.
Vào cuối xuân năm Vĩnh Thịnh thứ 14, triều Lê (1718), đông đảo bà con và nhiều bản hội xứ Thanh đã cùng nhau tổ chức hưng công nhiều tiền của đúc chuông đồng lớn cung tiến, dâng lên chùa Mèo.
Chùa Mèo được xây cất theo kiểu Tam quan và lợp bằng ngói mũi. Có chiếc chuông ghi hẳn tên chùa vào phần vai chuông bằng 8 chữ Đại tự: “Chú tạo Miêu đỉnh thiền tự Hồng chung” (Ghi chép về việc làm chuông chùa Mèo). Niên đại đúc chuông cũng được khắc rõ ràng là vào ngày Tết cuối xuân năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (năm 1718).
Chuông chùa Mèo. |
Chuông chùa Mèo thuộc loại lớn, được đúc khá sắc nét và mang nét nghệ thuật của thời Lê trung hưng. Thân chính trụ tròn, cao 1,09m, đường kính miệng chuông 0,5m, chu vi 1,49m. Quai chuông với đôi rồng đấu đuôi vào nhau tạo nên dáng cong tròn.
Đỉnh quai chuông có hình nậm rượu chia thành nhiều múi nối dọc xuống thân. Thân rồng mập, đầu ngẩng cao, mắt tròn, mũi to, miệng há rộng và ngậm viên ngọc. Toàn thân rồng phủ vảy kép, vây ở lưng hình ngọn lửa uốn theo hình quai chuông.
Thân chuông được chia thành bốn ô và trang trí nhiều hoa văn đặc sắc. Chuông có 6 núm để gõ, hoa văn sắc nét và chính xác như một dấu ấn di sản nghệ thuật thời Lê. Bốn ô của chuông ghi bài minh nói về chùa, về giá trị tâm linh của chuông, đồng thời ghi tên người công đức và niên đại của chuông.
Bài minh chuông chùa Mèo có đoạn ghi: “Âm vang của tiếng chuông có thể nói vào hàng đầu, vì nó có thể thức tỉnh được những cơn mê của đông đảo chúng sinh. Tiếng chuông có thể phát huy được ý niệm lương thiện của con người, do đó từ xa xưa người ta đã dùng tiếng chuông đồng làm công cụ trợ giúp cho những lời giáo hóa của các bậc thánh nhân”.
Những dòng chữ khắc ghi trên 4 mảng thân chuông còn là minh chứng về dấu ấn Lê Lợi nơi đây. Trong sách “Lam Sơn thực lục” viết năm 1431, vị anh hùng dân tộc Lê Lợi đã xưng danh là “Chúa động Lam Sơn đề tựa”, kêu gọi tập hợp sự đoàn kết các dân tộc vùng núi xứ Thanh cùng khởi nghĩa. Những lúc khó khăn, hoạn nạn, Lê Lợi dựa vào sự ủng hộ của các dân tộc ở châu Lang Chánh xưa giúp đỡ để kháng chiến chống quân Minh.
Đến giai đoạn lịch sử chống giặc nhà Thanh, anh hùng Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc đã dừng chân và vào chùa Mèo dâng hương cầu khấn cho cuộc kháng chiến chống giặc Thanh thắng lợi.
Linh ứng đã đến với nghĩa quân, cuộc kháng chiến đại phá quân Thanh toàn thắng. Quang Trung Nguyễn Huệ sau đó có chiếu chỉ cho thổ ty Lang Mường một lần nữa trùng tu, nâng cấp chùa Mèo và khắc tự, ghi danh nghĩa quân tại chùa Mèo.
Lễ hội chính của chùa Mèo được tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm. Chùa Mèo cũng là địa điểm sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của bà con các dân tộc huyện Lang Chánh. Cùng với thác Ma Hao, di tích chùa Mèo thành điểm tham quan không thể bỏ qua đối với du khách khi đến miền núi xứ Thanh.