Để bộc lộ cuộc nợ duyên dang dở của mình, bà viết: Năm canh thức nhấp... năm canh những/ Nửa gối so le, nửa gối chờ/ Vườn én rủ ren trên lối cũ/ Canh gà xao xác giục tình xưa...
Thơ của bà phần nhiều là để đối đáp lại những người đã trêu ghẹo, đã tỏ tình với mình, nhằm nêu lên đức kiên trinh của người phụ nữ Nam Bộ, như: Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc, Họa thơ Bảy Nguyện, Họa thơ Phủ Ngọc, Họa thơ Bái Liêu, Thưởng Bạch Mai, Vịnh ni cô.
Trong số bài thơ khác, Sương Nguyệt Anh đã kín đáo gửi gắm tấm lòng yêu nước, thương dân, quan tâm đến thời cuộc. Trong bài “Vua Thành Thái vào Nam”, bà viết: Vui lòng thánh đế nơi xe ngựa/ Xót dạ thần dân chốn lửa than/ Nước mắt có cùng trời đất biết/ Biển dâu một cuộc thấy mà thương.
Trên tờ “Nữ giới chung”, bà đăng nhiều bài thơ đề cao tinh thần quật khởi của các nữ anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu hoặc đăng những bài thơ đề cao nữ quyền, khuyên thanh niên Việt Nam không đi lính cho Pháp trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất 1914 - 1918.
Tuy nhiên, dù ngòi bút của Sương Nguyệt Anh có khéo léo đến đâu thì tầm ảnh hưởng của tờ báo đã khiến mật thám Pháp phải chú ý và e ngại. Sau gần một năm hoạt động, xuất bản được hơn 20 số báo, tháng 7/1918 tờ báo đã bị chính quyền thuộc Pháp buộc đình bản. Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà (Nguyễn Thị Vinh) vừa sinh nở xong, ngã bệnh qua đời.
Sau đó, mắt bà bị bệnh thường xuyên đau nhức và sức khỏe cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hòa (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù hẳn.
Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm ngày 12 tháng Chạp năm Tân Dậu (tức ngày 9/1/1922), do sức khỏe quá yếu, Sương Nguyệt Anh trút đã hơi thở cuối cùng, thọ 58 tuổi.
Lúc đầu, mộ nhà báo Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau (năm 1959) được đồng bào cải táng về nằm cạnh mộ phần của song thân - trong khu đền thờ và mộ danh nhân Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.
Giai thoại những lời từ chối
Bằng tất cả tài năng, tâm huyết, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp chung, Sương Nguyệt Anh đã để lại trong tâm trí người Việt hình ảnh đẹp về một nữ chủ bút đầu tiên, một nhà thơ đa tài và một người tiên phong trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi, địa vị của phụ nữ nước nhà.
Nhà thơ Nguyễn Liên Phong (tác giả Điếu cổ hạ kim thi tập) đã dành những lời thật xứng đáng khi viết về Sương Nguyệt Anh: Gương tỏ đời nay trang tiết phụ/ Lâu đài tiếng tốt tạc non sông.
Ở Bến Tre ngày nay, giới văn nhân vẫn lưu truyền nhiều giai thoại chữ nghĩa về nhà báo Sương Nguyệt Anh. Chuyện rằng, cụ Đồ Chiểu tuy mù lòa, nhưng giỏi nghề thuốc lại khẳng khái yêu nước chống Pháp nên khách lui đến nhà rất đông.
Nguyễn Xuân Khuê đang thời con gái, nhiều chàng muốn kết duyên. Trong số đó có hai anh chàng tên là Xương và Giảng. Hai người này thường đến nhà cụ Đồ chơi cờ, thỉnh thoảng lại họa thơ, cột ghẹo con gái cụ Đồ.
Muốn đuổi khéo hai anh chàng, cô bèn ra câu đối: Đằng tiểu quốc sự Tề hổ, sự Sở hồ? (Nước Đằng nhỏ, nước Tề và nước Sở ép hai bên, quay đầu về Sở, e Tề giận - ngoảnh mặt về Tề, sợ Sở ghen).
Anh chàng Giảng nghĩ mãi chưa ra, chàng Xương gỡ thế bí, xin đối: Ngã đại trượng, phạt Quách hỷ, phạt Sở hỷ (Gậy ta dài, trị Quách ngồi nước Yên, trị cả nước Sở).
Cô Khuê vừa nghe xong, đỏ mặt, lẳng lặng bỏ vào buồng. Lát sau một đứa nhỏ ra, trao cho hai chàng một mảnh giấy viết: “Chiêu Quân nhan sắc nghe ra uổng/ Tây Tử phong lưu nghĩ lại buồn!”. Câu này ngụ ý rằng: Nàng Chiêu Quân lẫn nàng Tây Thi là cô Xuân Khuê đã chê cả hai chàng! Hai chàng đành ra về.
Một lần khác có thầy Bảy nộp đơn ghẹo Sương Nguyệt Anh với bài thơ tứ tuyệt: Ai về nhắn với Nguyệt Anh Cô/ Chẳng biết lòng cô tính thế nào/ Không phải vãi chùa sao đóng cửa?/ Đây lòng gấm nghé bắc cầu ô.
Chả lẽ không đáp lời, Sương Nguyệt Anh Cô đành phải họa: Chẳng phải tiên cô cũng đạo cô/ Cuộc đời dâu bể biết là mô!/ Lọng sườn dầu rách còn kêu lọng/ Ô bịt vàng ròng tiếng vẫn ô.
Sợ thầy Bảy vẫn theo đuổi, cô họa thêm một bài dứt khoát: Phải thời cô quả, chịu thời cô/Chẳng biết tuồng đời tính thế mô?/Dòm thây bụi trần toan đóng cửa/Ngọc lành chi để thẹn danh ô.