Bộ sách có ghi các phần: Phú Thang, phú Mạch, phú Dược, phú Bệnh… không giống với các bộ sách của Trung Quốc như: Y học nhập môn, Phùng thị cẩm Nang, Minh Y chỉ chưởng… Khi đối chiếu với các pho sách của Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông thì nó có nhiều mặt chuyên biệt, đặc thù, ưu điểm riêng.
Đặc biệt sách ghi đầy đủ: Lư San Mạch gồm 3 phần: Lư San cổ mạch quốc âm ca (thơ Lục bát), Bát yếu mạch phú và Bát yếu tổng ngoa, đã bị thất truyền ngay tại Trung Quốc; Nhân thân phú, y thuật phú, phú phương thang, chỉ Nam dược vật quốc âm ca (sách dậy chữ Nôm cho lương y).
Có phân khoa, phân mục, phú thang, phụ khoa, tiểu nhi, thương hàn, ngoại cảm lục dâm và tạp chứng… Một phần nhỏ đã được một số lương y phóng dịch ra Việt ngữ, như: Lư San mạch phú, Lư San Mạch ca, Nhân thân phú. Nhưng hầu hết các sách đã dịch đều có nhiều thiếu sót.
Ngoài y học, Nguyễn Gia Cát còn để lại văn bản khá đặc biệt trong số các tác phẩm văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại – “Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập”.
Tên của tác phẩm cho thấy, tác giả đã dựa trên cơ sở một tác phẩm có từ trước để sáng tác, đó là “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên. Mặc dù ông cho rằng, mình chỉ làm một công việc rất nhỏ - tân đính hiệu bình (hiệu đính và bình luận mới), nhưng thực chất đã “hoán cốt” và biến một tác phẩm thần tích thành tác phẩm văn học nghệ thuật.
Nguyễn Gia Cát đã lấy cảm hứng sáng tác để biên soạn lại, khiến cho qui mô tác phẩm của Lý Tế Xuyên được mở rộng. Với bút pháp độc đáo, tạo dựng một khung cảnh hoành tráng về cuộc đấu tranh kiên cường chống xâm lược từ phương Bắc của dân tộc Việt Nam thời Bắc thuộc, qua đó địa linh nhân kiệt Việt Nam trong “Việt điện u linh tập” một lần nữa lại được tái hiện đầy đủ, cụ thể và sinh động.
“Việt điện u linh tập” là sự hòa trộn của cả ba tư tưởng Nho, Lão, Phật, cùng tập quán thờ cúng tổ tiên. Có thể nói, mục đích bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là để phục vụ cho việc thờ cúng. Vì điều này mà tác phẩm trở thành sản phẩm văn tự có ảnh hưởng lớn đến dòng văn học tự sự Việt Nam suốt thời trung đại.
Tuy tiếp tục con đường của những người đi trước, nhưng Nguyễn Gia Cát đã bứt lên khỏi công việc “tăng bổ”, “trùng bổ”... và đã lựa chọn cho mình một phương thức khác: Biến đổi một tác phẩm văn học chức năng lễ nghi thành một tác phẩm đậm đà sắc thái văn học nghệ thuật.
Nguyễn Gia Cát chính là tác giả “Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập”. |
Vụ án “man thần”
Mặc dù có công rất lớn với triều đình nhà Nguyễn, cũng như với nền giáo dục trên cương vị Đốc học – và với nền văn học – y học Việt Nam, song, về sau Nguyễn Gia Cát lại dính vào một vụ án “khai man thần sắc” nên bị bãi chức, giam trong ngục 4 năm.
Theo một số nguồn sử liệu, vào tháng 2 năm Gia Long 3 (1804), các quan ở Bắc Thành tâu xin phong tặng cho thần thiêng các địa phương, sai các làng xã xét hỏi rõ linh tích. Phàm vị nào có công đức với dân, các triều vua đã phong tặng thì làm danh sách tâu lên để xin phong tiếp.
Vua Gia Long sai Nguyễn Gia Cát bàn tâu về việc kê khai này. Gia Cát uỷ cho Thiêm sự Vũ Quý Dĩnh trực tiếp chỉ đạo việc kê khai, sai con là Nguyễn Dực và em vợ là Cống sĩ Tô Văn Dậu phụ giúp.
Lợi dụng cương vị được giao, Vũ Quý Dĩnh làm bản khai giả và sắc giả, phong cho cả ông bà, bố mẹ mình làm phúc thần để được cấp sắc mới. Bọn Nguyễn Dực cũng dựa theo đó làm các sắc giả và khai man về các vị thần, khiến cho việc phong sắc bị nhầm lẫn, đảo lộn.
Mãi đến năm Tân Mùi (1811), vụ việc trên đây mới bị phát giác. Các quan ở Bắc Thành phát hiện được có đến hơn 560 đạo sắc bị làm giả để phong cho các “man thần”. Vua Gia Long nghe lời tâu nổi giận, sai đình thần xét lại.
Điều đáng lưu ý của vụ việc là trong số các “man thần”, có cả Hoàng Ngũ Phúc - đại tướng đã dẫn quân Lê - Trịnh vượt sông Gianh để đánh quân chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào năm Giáp Ngọ 1774. Ông bị chết trên đường trở về Đàng Ngoài, đã được nhiều làng xã lập đền thờ.
Đặng Trần Thường - một trong những tâm phúc, có công lớn giúp Nguyễn Ánh - Gia Long gây dựng cơ đồ. Khi còn giữ chức Phó Tổng trấn Bắc Thành, tuy biết việc nhưng vẫn cho qua và cho liệt vào điển thờ.
Đến đây, Nguyễn Gia Cát cứ theo đó mà làm bản tâu xin gia tặng Hoàng Ngũ Phúc làm “Thanh danh văn võ thánh thần đại vương”. Khi việc khai man bị phát giác, Đặng Trần Thường sợ hãi xin chịu tội.
Vụ án rất căng thẳng, sau nhiều lần bàn xét, cuối cùng vua Gia Long quyết định xử Vũ Quý Dĩnh trảm quyết (chém ngay, không xét lại), Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát cùng bị trảm giam hậu (bị tội chém nhưng được giam để xét lại án “thu thẩm”). Đến tháng 7 năm Quý Dậu 1813, hai người mới được tha.
Đây là vụ án “khai man thần thánh” duy nhất trong lịch sử thời nhà Nguyễn. Sau khi được tha, Nguyễn Gia Cát về làng mở trường dạy học và mất tại quê nhà năm 1816.
“Nước chúng tôi từ Trần, Lê về trước, Nam Bắc chia đôi nhau mà tự quyết lấy được. Nay vua tôi dấy lên từ Gia Định, thành công ở Thăng Long, nên đặt hiệu là Gia Long”.
– Lời đối đáp của Nguyễn Gia Cát trước sự vặn vẹo của vua nhà Thanh.