Ngôi mộ được cho là của cụ Hàn Thuyên tại Thái Bình. Nguồn: Hàn ngọc gia phả |
Tuy nhiên, về sau Hàn Thuyên lại gặp muôn vàn sóng gió. Có thuyết nói rằng, khi về trí sĩ ông có xây nhà theo kiểu “nội công ngoại quốc”, trong nhà sắm nhiều đồ giống như ngai vàng, bát bộ. Việc đến tai nịnh thần trong triều, họ đã tâu lên vua hặc tội Hàn Thuyên và cho rằng ông có ý định làm phản. Vua tức tốc phái quan khâm sai đến để tìm hiểu.
Viên quan này đến, Hàn Thuyên thật thà cho rằng lập nhà như vậy là để thờ Phật, còn việc thờ phụng những đồ giống như cung điện là muốn tỏ ý trung thành, một lòng hướng về nhà vua. Không hề có ý làm phản vì đâu có kho tàng vũ khí, đâu có chiêu binh mãi mã.
Những lời nói của ông đã thuyết phục được sứ giả và ông thoát khỏi kiếp nạn. Tuy nhiên, ông vẫn nhận ra mối nguy hiểm rình rập. Vào một đêm, Hàn Thuyên cùng gia quyến bí mật ra đi và để lại 3 chữ: “Dân nại tri” (một lời từ biệt với dân làng).
Từ khi ông đi, không ai biết được tung tích nữa. Bởi vậy, sau này người dân làng Lai Hạ đã lập đền thờ ông ngay tại đất khu đất ông ở. Hàng năm dân làng đều tổ chức lễ hội vào ngày 17/5.
Năm 1995, đền thờ Hàn Thuyên được xếp hạng Di tích quốc gia. Theo thời gian và thăng trầm của lịch sử, chiến tranh, đền thờ Hàn Thuyên nhiều lần bị tàn phá. Trên nền cũ, người dân Lai Hạ thành kính dựng ngôi đền nhỏ ba gian để tưởng nhớ danh nhân.
Đền thờ Hàn Thuyên được đại trùng tu vào năm 2010. |
Cho đến nay, giới nghiên cứu chưa thể xác định thời điểm chính xác sự xuất hiện của chữ Nôm. Tuy nhiên, lại có thể coi Hàn Thuyên là ông tổ của văn Nôm.
Như Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu”, cho rằng: “Ông là người đầu tiên biết làm thơ phú bằng quốc âm, nên ông có thể coi là ông tổ của văn Nôm”. Sách “Từ điển nhân vật lịch sử VN” cũng khẳng định: “Ông là sĩ phu đầu tiên đem chữ Nôm dùng vào văn học”.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại: “Hàn Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy (từ sự kiện bài Văn tế cá sấu)”. Sau này, vua Tự Đức từng có thơ khen Hàn Thuyên: “Quốc ngữ văn chương mới nhúng tay/Chẳng quên tiếng mẹ khá khen thay/Sông Lô đuổi sấu in Hàn Dũ/Nên được nhà vua đổi họ ngay”.
PGS.TS Lại Phi Hùng - Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng: Trước đây có người đã cho rằng bài “Văn tế cá sấu” được viết bằng chữ Nôm, nhưng điều đó không lấy gì làm chắc chắn vì bài văn đã được thả xuống sông không còn lưu truyền văn bản.
Tuy nhiên, ông Hùng khẳng định đóng góp đặc biệt quan trọng của Hàn Thuyên với nền văn học viết bằng chữ Nôm. Ông được coi là người đầu tiên mang chữ Nôm dùng vào văn học, cụ thể là dùng luật thơ Đường làm thơ Nôm nên đời sau gọi thơ Nôm theo Đường luật là “Hàn luật”.
Đồng thời, Hàn Thuyên là tác giả của tập thơ “Phi sa tập”. Nhờ có ông áp dụng vào thơ phú, chữ Nôm đã khởi đầu trong việc giúp tiếng nói đời thường của dân tộc trở thành ngôn ngữ văn học.
Tập thơ “Phi sa tập” có những bức tranh phong cảnh khá tao nhã viết bằng chữ Nôm. Chẳng hạn như bài “Xuân”: Hoa nở, lộc hường, xuân lại xuân/Cỏ cây mơn mởn đón đông quân/Bướm ong bay rộn. Trời đang ấm/Mừng mảng trăng xuân sáng bội phần.
Dù còn nhiều tranh cãi về thơ văn chữ Nôm của Hàn Thuyên, nhưng giới nghiên cứu cho rằng, những đổi mới của Hàn Thuyên đã mở ra một phương hướng tìm tòi và sáng tạo tích cực trong quá trình phát triển nền văn học chữ Nôm. Với những đóng góp mang tính đề cao bản sắc dân tộc ấy, Hàn Thuyên xứng đáng là nhà văn hóa lớn của Việt Nam.
TS Lê Viết Nga - nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh cho biết: Cụ Hàn Thuyên xây một nếp nhà ngói có đao cong tám mái, nhưng sai với quy định triều đình. Có người ghen tức đã tâu lên vua, Hàn Thuyên biết nên cho đặt tượng Phật vào. Khi quan quân về xem xét, chỉ thấy đó là ngôi chùa nhỏ. Sau khi Hàn Thuyên tạ thế, ngôi nhà ấy trở thành chùa gọi là Chùa Mỗ. Để tưởng nhớ công lao, người dân dựng ngôi đền thờ Tướng công Hàn Thuyên - gọi là Thiên Mỗ bên cạnh ngôi chùa.