“Đa phần các địa bàn vùng sâu, vùng xa hiếm có giáo viên đạt. Lý do không phải thầy cô không nỗ lực hoặc không có cá nhân nào tiêu biểu. Song các tiêu chuẩn hiện tại không những cao mà còn yêu cầu rộng, nhiều thành tích. Đặc biệt cấp Mầm non, Tiểu học, THCS lại càng khó”, ông Chùy bộc bạch.
Theo ông Chùy phân tích, đa phần ở địa bàn vùng khó, các nhà giáo tiêu biểu, có phẩm chất đạo đức tốt, sau thời gian giảng dạy từ 5 – 7 năm trong ngành thường được cân nhắc bổ nhiệm và động viên giữ chức vụ quản lý. Đây được xem là giải pháp nhằm ghi nhận, giữ “chân” nhân tài, để tiếp tục cống hiến cho ngành và địa phương.
Khi làm quản lý rồi thì không tham gia thi giáo viên dạy giỏi nên khi xét điều kiện này thì không thể đảm bảo. Ngoài ra, nếu tính số năm trực tiếp nuôi dạy (không tính thời gian giữ chức vụ cán bộ quản lý trong ngành giáo dục) thì nhiều nhà giáo tiêu biểu cũng không đủ điều kiện được công nhận danh hiệu NGƯT.
Bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy, các thầy cô còn thay cha mẹ chăm sóc học sinh. |
Trong khi đó, theo ông Chùy phân tích, sự nỗ lực, cống hiến của giáo viên ở vùng khó là rất lớn. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn thì hàng ngày thầy cô phải song song đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách về: Giao thông, điều kiện sinh hoạt, giảng dạy, nhận thức phụ huynh, học sinh... Đòi hỏi mỗi giáo viên phải thật sự bản lĩnh, nỗ lực mới bám bản, bám lớp thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đơn cử, tại Trường Mầm non Nà Khoa (huyện Nậm Pồ), theo Hiệu trưởng Tòng Thị Nọi, thì ở đây có tới 10 điểm bản. 100% các điểm này đều đang hội tụ đủ các yếu tố khó khăn đặc thù của giáo dục vùng cao, nhất là giao thông.
Mặc dù điểm bản xa nhất chỉ hơn 10km, song theo cô Nọi, toàn bộ tuyến giao thông hiện nay vẫn là đường đất dân sinh. Mùa mưa rất trơn trượt và thường xuyên xảy ra sạt lở, lũ quét. Trong đó có điểm bản Huổi Xổm phải qua suối rộng nhưng chưa được đầu tư cầu.
“Vào mùa khô người dân làm cầu tre đi tạm. Song mỗi mùa mưa, lũ về lại cuốn trôi cầu. Để đến điểm trường, giáo viên phải lội qua suối hoặc đi nhờ bè của người dân. Điều này hết sức nguy hiểm, song nhà trường cũng chỉ biết động viên và dặn dò các cô cẩn trọng, chứ chưa có cách nào khắc phục”, cô Nọi trăn trở.
Đến nay, mặc dù giáo dục đã phát triển hơn, song hàng năm giáo viên ở vùng khó Điện Biên vẫn phải đến nhà vận động học sinh ra lớp. |
Dẫu vậy, theo cô Nọi chia sẻ, giáo viên ở đây vẫn nỗ lực khắc phục khó khăn để tổ chức tốt các hoạt động giáo dục. Nhất là việc huy động và duy trì sĩ số học sinh ra lớp đảm bảo. Đa phần giáo viên đều có thời gian công tác khoảng trên dưới 10 năm, một số người gắn bó gần 20 năm.
Ngành giáo dục địa phương này cho rằng nếu vẫn giữ nguyên các tiêu chí như trước đây, thì ở những địa bàn vùng khó sẽ không thể có NGƯT. Nhất là với giáo viên cắm bản, càng vất vả khó khăn lại càng khó đạt. Do vậy, nên “nới lỏng” một số tiêu chuẩn và có tiêu chí đặc thù trong xét duyệt danh hiệu này. Bởi đó là sự ghi nhận và động viên kịp thời đối với những nhà giáo thật sự nỗ lực, xứng đáng.
Đơn cử như quy định về số năm trực tiếp giảng dạy đối với giáo viên, cán bộ quản lý công tác ở vùng cao, biên giới, hải đảo nên giảm từ 15 năm xuống 10 năm và của cán bộ quản lý từ 10 năm xuống 7 năm.
"Nới lỏng tiêu chí không đồng nghĩa với việc cào bằng, mà để phù hợp với đặc thù vùng miền. So bó đũa để chọn cột cờ. Thầy cô cũng sẽ là tấm gương để soi và cùng động viên nhau tiếp tục nỗ lực phấn đấu”, ông Phạm Thiết Chùy, Trưởng Phòng GD&ĐT Nậm Pồ chia sẻ.